Văn hóa, văn nghệ dân gian sau ngày đất nước thống nhất
Sáng 18/10, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam đã tổ chức hội thảo quốc gia 'Văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (1975 - 2025)'.
Phát biểu đề dẫn hội thảo, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, GS. TS. Lê Hồng Lý khẳng định: văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau năm 1975 phát triển mạnh mẽ, cả trong công tác sưu tầm, phổ biến và truyền dạy.
Nhiều di sản văn hóa dân gian được sưu tầm, khôi phục, được ghi chép lại và được thực hành trong đời sống. Có những di sản, ngày xưa từng bị coi là mê tín dị đoan, nhưng đến nay lại trở thành Di sản văn hóa thế giới như Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt, hoặc việc sưu tầm được một pho tàng sử thi Tây Nguyên, phục dựng những di sản văn hóa dân gian trên khắp mọi miền đất nước…

Hội thảo “Văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (1975 - 2025)” sáng 18/10
Theo GS. TS. Lê Hồng Lý, trong thời đại số hiện nay, văn hóa văn nghệ dân gian đang có bước chuyển mình lớn. Sự phát triển của công nghệ là một thách thức lớn đối văn hóa dân gian, bởi không gian và môi trường sống của văn hóa dân gian là ở các làng quê.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của quá trình hội nhập quốc tế mạnh mẽ, các làng quê đang dần bị đô thị hóa, không gian để văn hóa, văn nghệ dân gian đang dần bị thu hẹp, đó là một thách thức lớn trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa, văn nghệ dân gian.
Những phong tục, tập quán hay di sản văn hóa dân gian, từ nghi thức tín ngưỡng, lễ hội, đến dân ca, dân vũ… đứng trước nguy cơ mai một, đặt ra trách nhiệm lớn lao cho những người làm công tác sưu tầm, nghiên cứu và bảo tồn di sản văn hóa, văn nghệ dân gian, cũng như trách nhiệm của những nhà quản lý trong quá trình hoạch định, xây dựng chính sách làm sao để vừa có thể bảo tồn, gìn giữ được giá trị di sản, vừa phát triển di sản văn hóa văn nghệ dân gian lan tỏa đến cộng đồng…

GS.TS. Lê Hồng Lý phát biểu đề dẫn tại hội thảo
GS. TS. Lê Hồng Lý cũng dẫn chứng một số trường hợp điển hình, trong việc các nghệ sĩ và nhạc sĩ đưa chất liệu dân gian vào âm nhạc và thành công, như trường hợp của Hòa Minzy và Đức Phúc, đưa văn hóa dân gian vào các tác phẩm âm nhạc hiện đại, vừa quảng bá được văn hóa, vừa gìn giữ và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc…
Phát biểu tại hội thảo, PGS. TS. Nguyễn Chí Bền, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia, nhận định sau năm 1975, văn hóa, văn nghệ dân gian trên cả nước đã đạt được nhiều thành tựu. Sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian Nam Bộ cũng nằm trong sự phát triển chung đó, ở các loại hình: ngữ văn dân gian (truyện kể, truyện cười, truyện trạng, ca dao, dân ca, tục ngữ, vè câu đố), nghệ thuật dân gian (kiến trúc dân gian), nghệ thuật trình diễn dân gian (dân ca, nhạc lễ, đờn ca tài tử), tri thức dân gian và làng nghề, tín ngưỡng và lễ hội dân gian, nghệ nhân.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Cách mạng Công nghiệp 4.0, vấn đề nghiên cứu tổng thể văn hóa dân gian Nam Bộ, xây dựng databank văn hóa dân gian Nam Bộ và quảng bá thành tựu nghiên cứu văn hóa dân gian Nam Bộ với bạn đọc trong nước và nước ngoài… cần được mở rộng và tiếp thu các cách làm của khu vực và thế giới.

PGS.TS. Trần Thị An, Đại học Quốc gia Hà Nội, trình bày tham luận tại hội thảo
Ở hướng tiếp cận thực tế tại 3 thành phố Hà Nội - Huế - TP. Hồ Chí Minh, PGS. TS. Trần Thị An, Đại học Quốc gia Hà Nội, cũng cho biết các hoạt động văn hóa nói chung, văn hóa, văn nghệ dân gian nói riêng, đã từng bước định hình và phát triển theo định hướng mới. Hoạt động của đội ngũ sưu tầm, nghiên cứu văn nghệ dân gian ở 3 thành phố có những khởi sắc với việc hài hòa giữa sưu tầm và nghiên cứu, giữa việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống và các phương pháp nghiên cứu mới, liên ngành và cập nhật so với các xu hướng nghiên cứu trên thế giới… đóng góp cho việc bảo tồn văn hóa truyền thống của vùng đất, nhằm phục vụ phát triển bền vững vùng, miền và đất nước…
Phân tích cơ hội và thách thức trong bảo tồn và phát huy văn hóa dân gian trong kỷ nguyên số, bà Nguyễn Thị Hải Anh, Khoa Khoa học cơ bản, Trường Ngoại ngữ (Đại học Thái Nguyên) nhấn mạnh vai trò của các nền tảng trực tuyến như TikTok và YouTube… Theo đó, các nền tảng trực tuyến này vừa tạo điều kiện mở rộng không gian lan tỏa di sản, vừa đặt ra nguy cơ làm lệch chuẩn và phi ngữ cảnh hóa văn hóa truyền thống. Bà Hải Anh đề xuất cách tiếp cận bảo tồn không dựa trên việc giữ nguyên hình thức, mà dựa trên năng lực duy trì tính sống, khả năng tham dự và tái kiến tạo bản sắc trong môi trường số…