VCCI kiến nghị không tăng thuế với lãi vay của doanh nghiệp nước ngoài
VCCI đề xuất tiếp tục duy trì thuế suất 5% đối với thu nhập từ lãi vay của doanh nghiệp nước ngoài, thay vì nâng lên 10% như dự thảo của Bộ Tài chính.
Trong văn bản góp ý gửi Bộ Tài chính về Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) bày tỏ quan ngại về đề xuất tại Khoản e, Điểm 2, Điều 11, trong đó thuế suất áp dụng đối với thu nhập từ lãi vay và chuyển nhượng vốn của doanh nghiệp nước ngoài sẽ được nâng từ 5% lên 10%.

Ảnh minh họa
VCCI nhận định, nếu quy định này được thông qua, về lâu dài có thể ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng tiếp cận vốn, hạn chế hoạt động đổi mới công nghệ và làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước.
Việc tăng thuế cũng khiến lợi nhuận của các nhà đầu tư quốc tế giảm, buộc họ cân nhắc dịch chuyển dòng vốn sang các quốc gia có chính sách ưu đãi hơn. Hệ quả là chi phí vốn của doanh nghiệp Việt Nam sẽ tăng, chi phí hoạt động phình to, từ đó làm suy giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực.
Vì vậy, VCCI kiến nghị tiếp tục áp dụng mức thuế suất 5% hiện hành đối với khoản lãi vay của doanh nghiệp nước ngoài để duy trì môi trường đầu tư ổn định và hấp dẫn.
Đồng thời, VCCI cũng đề nghị làm rõ quy định về thuế suất đối với hoạt động chuyển nhượng vốn của chủ sở hữu không trực tiếp điều hành doanh nghiệp tại Việt Nam, bởi hiện chưa có tiêu chí cụ thể để xác định nhóm đối tượng này, gây khó khăn trong thực tiễn áp dụng.
Ngoài nội dung về thuế suất, VCCI cũng đưa ra nhiều ý kiến góp ý về quy định tại Điều 9 Dự thảo liên quan đến các khoản chi được trừ. Theo phản ánh từ doanh nghiệp, một số khoản chi phát sinh trên thực tế chưa được tính đến, trong đó có chi phí đầu tư dài hạn không thành công, chi phí mang tính trách nhiệm xã hội hoặc nghĩa vụ chính trị, và các khoản chi phát sinh theo yêu cầu bắt buộc của Nhà nước.
VCCI đề nghị bổ sung vào danh mục chi phí được trừ những khoản cụ thể như: chi phí đầu tư phát triển sản phẩm mới nhưng thất bại; chi phí liên quan đến quá trình thành lập doanh nghiệp, kể cả trước khi thành lập; chi phí tài trợ quy hoạch dự án cho địa phương và các hoạt động xã hội; chi phí hủy bỏ hoặc thanh lý tài sản cố định do hư hỏng hoặc hết khấu hao. Tổ chức này cho rằng việc bổ sung là cần thiết để quy định sát thực tế, bảo đảm công bằng và minh bạch cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đối với quy định tại Khoản b10, Điểm 1, Điều 9, Dự thảo chỉ cho phép trừ chi phí xây dựng công trình công cộng khi công trình không phục vụ mục đích kinh doanh và không thu tiền.
VCCI cho rằng quy định này trùng lặp và không cần thiết, bởi nội dung trên đã được điều chỉnh tại Nghị định 06/2021/NĐ-CP. Nếu tiếp tục giữ nguyên, sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong áp dụng. Do đó, VCCI đề nghị bỏ quy định này và dẫn chiếu trực tiếp theo Nghị định 06/2021/NĐ-CP.
Ngoài ra, tại Điểm 21, Khoản 2, Điều 9, Dự thảo quy định không cho phép trừ các khoản chi phí lãi vay vượt mức phân bổ theo tỷ lệ doanh thu của hợp đồng BT, BOT, BTO. VCCI cảnh báo, quy định này chưa hợp lý vì không giới hạn phạm vi áp dụng, dễ bị hiểu là áp dụng trên mọi lĩnh vực.
Trong khi đó, chi phí lãi vay của các dự án thường được vốn hóa trong giai đoạn chưa phát sinh doanh thu. Bên cạnh đó, doanh nghiệp hiện đã phải tuân thủ trần chi phí lãi vay theo EBITDA tại Nghị định 132/2020/NĐ-CP. Nếu đồng thời áp dụng cả hai cơ chế, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn lớn trong việc xác định chi phí hợp lý. Do đó, VCCI kiến nghị bãi bỏ hoặc giới hạn phạm vi điều chỉnh của quy định này.
Một điểm khác được VCCI lưu ý là quy định về bù trừ lỗ tại Khoản 3, Điều 6 của Dự thảo. Nội dung hiện hành cho phép lỗ từ hoạt động sản xuất kinh doanh được bù trừ vào thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi. Tuy nhiên, dự thảo chưa làm rõ liệu phần lỗ còn lại có thể được chuyển sang bù trừ với lãi của các hoạt động khác trong thời hạn chuyển lỗ hay không.
VCCI nhấn mạnh, cần làm rõ quy định này để bảo đảm quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp và bảo đảm sự nhất quán trong chính sách thuế. Một quy định minh bạch sẽ giúp doanh nghiệp an tâm trong việc lập kế hoạch kinh doanh, đồng thời thuận lợi hơn trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế.