Vì sao 65% dân nông thôn Hà Nội chưa được tiếp cận nước sạch?
Lãnh đạo Công ty CP Nước sạch số 2 Hà Nội đưa ra một số lý giải về việc tỷ lệ người dân nông thôn ở Hà Nội được tiếp cận nước sạch chỉ đạt 35%.
Tọa đàm “Dịch vụ cung cấp nước sạch tại Việt Nam: Thị trường và các vấn đề chính sách” do Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển Truyền thông (IPS) tổ chức ngày 26/4. Ông Nguyễn Quang Đồng, Viện trưởng IPS đánh giá: “Việt Nam đang nguy cơ lỡ hẹn đối với mục tiêu 95 - 100% người dân thành thị và 93 - 95% người dân nông thôn có nước sạch để dùng vào năm 2025”.
Phân tích của IPS dựa trên Báo cáo Tổng điều tra dân số và nhà ở của Tổng cục Thống kê năm 2019 cho thấy, tỷ lệ hộ tiếp cận được nước máy trên toàn quốc chỉ đạt 52,2%. Xét theo khu vực, chỉ có khoảng 84% dân cư đô thị và khoảng 35% dân cư nông thôn tiếp cận được nước máy - nguồn nước sạch và an toàn theo tiêu chuẩn.
Đặc biệt, tại Hà Nội, năm 2019, tỷ lệ hộ dân tiếp cận được nước máy của vùng nông thôn mới đạt khoảng 35%, tương đương mức trung bình toàn quốc và thấp hơn so với nhiều địa phương khác trên cả nước.
Tại tọa đàm, ông Ngô Văn Đức, Phó Giám đốc Công ty nước sạch số 2 Hà Nội đưa ra một số lý giải về việc còn tới 65% người dân nông thôn ở Hà Nội chưa được tiếp cận nước sạch.
Toàn cảnh Tọa đàm Dịch vụ cung cấp nước sạch tại Việt Nam
Chưa làm đã biết lỗ!
Cụ thể, ở nông thôn, mật độ dân số thưa và xa nên đường ống dẫn nước dài, đồng nghĩa với chi phí lớn. Tuy nhiên, lượng nước sử dụng của người dân ở nông thôn thường thấp. Thực tế một số doanh nghiệp đã đầu tư ở nông thôn, sau đó phải dừng vì người dân tiết kiệm, chỉ sử dụng nước sạch để ăn uống; còn phục vụ những mục đích khác thì họ dùng các nguồn khác.
Đối với Hà Nội, chính sách giá nước là giá lũy tiến. Nếu sử dụng dưới 10 m3 giá chỉ 5.973 đồng/m3 và mức giá này là dưới giá thành sản xuất. Như vậy doanh nghiệp chưa bán đã lỗ (vì người dân nông thôn dùng tiết kiệm, chủ yếu dùng dưới 10 m3/tháng – PV).
“Đó là lý do vì sao dân nông thôn không có cơ hội tiếp cận nước bằng đô thị”, ông Đức nói. “Đầu tư thì phải có lợi nhuận, kể cả tư nhân. Còn doanh nghiệp nhà nước thì lãnh đạo phải có trách nhiệm bảo toàn vốn nhà nước. Nếu đầu tư vào khu vực chưa đầu tư đã biết lỗ thì doanh nghiệp có cách nào để đầu tư? Đó chính là lỗ hổng chính sách”, ông Đức nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, chính sách ưu đãi thuê đất chỉ dành cho xây nhà máy, còn đường ống thì không, vì vậy việc tiếp cận của dân vùng nông thôn càng khó khăn.
Đặc biệt, theo ông Đức, sự thiếu rõ ràng trong khung chính sách, pháp lý cũng đang bó tay doanh nghiệp. Đơn cử, Nghị định 117/2007/NĐ-CP về quản lý cung cấp, khai thác nguồn nước quy định: khu vực chưa có đơn vị cấp nước thì sẽ đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư cấp nước. Tuy vậy, Luật Đầu tư công lại không hướng dẫn đấu thầu với dự án cấp nước. Trong trường hợp chỉ định thầu, cơ quan quản lý cũng “chùn tay”. Bởi vậy, 2 năm nay, 18 xã của huyện Sóc Sơn và 2 xã của huyện Đông Anh vẫn chưa có nước sạch.
Nan giải bài toán giá cả
Theo ông Nguyễn Quang Đồng, “đang có một nghịch lý là nếu không điều chỉnh giá nước thì doanh nghiệp không đủ chi phí, nhưng nếu giá quá cao thì người dân không tiếp cận được nguồn nước sạch”.
Bên cạnh đó, ông Nguyễn Quang Huân, Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và môi trường Việt Nam cho rằng, cơ chế giá nước sinh hoạt bất cập, chưa tính đúng tính đủ khiến doanh nghiệp không vững về tài chính và khó mở mang đầu tư.
Thực tế, thị trường nước sạch trong 20 năm qua phát triển rất tốt nhưng công nghệ còn lạc hậu. “Đa phần ta khử trùng nước bằng clo, đây là cách làm của những năm 50 - 60 của thế kỷ trước. Bây giờ thế giới dùng ozone và tia cực tím rồi”. Như vậy, nếu không đủ chi phí, không có lợi nhuận thì doanh nghiệp không thể đầu tư và tạo thành vòng lòng quẩn: thiếu nước, chất lượng nước không đạt yêu cầu.
Tìm giải pháp cho vấn đề này, PGS.TS. Vũ Sỹ Cường, Học viện Tài chính cho biết, theo thông lệ quốc tế, đối với dịch vụ “bán công” như cung cấp nước sạch (tức là có cả doanh nghiệp tư nhân tham gia), cơ quan nhà nước phải cam kết mức lợi nhuận tối thiểu cho doanh nghiệp và sử dụng cơ quan kiểm toán hoạt động độc lập để bảo đảm chi phí đầu tư của doanh nghiệp là chính xác.
Đặc biệt, ông Nguyễn Quang Đồng nhấn mạnh, khi chính quyền đã ký hợp đồng mua nước với doanh nghiệp thì phải tôn trọng thực hiện hợp đồng. “Ngành nước cần nhìn bài học của dự án PPP trong lĩnh vực giao thông, khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thực hiện đúng hợp đồng, gây thiệt hại tài chính cho doanh nghiệp, khiến thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án giao thông ngày một khó khăn”, ông Đồng nói.
Nên có một luật riêng cho thị trường nước
Tại tọa đàm, TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, thị trường dịch vụ nước sạch còn nhiều vấn đề chưa hoàn chỉnh, từ khâu tổ chức đến khâu điều tiết, vận hành thị trường. Ông Cung đề xuất, nên có một luật riêng cho thị trường nước, điều chỉnh không chỉ vấn đề cấp nước mà cả vấn đề xử lý nước sinh hoạt. “Tương tự như ngành điện có Luật Điện lực, cần có một văn bản ở cấp độ luật để tạo lập khuôn khổ thống nhất, minh bạch cho thị trường nước sạch”.