Vì sao khủng hoảng năng lượng châu Á là 'ác mộng' với phần còn lại của thế giới?
Cuộc khủng hoảng năng lượng ở châu Á sẽ không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến các nước ở khu vực này mà còn tác động tới phần còn còn lại của thế giới, đặc biệt là về khí hậu.
Tại Sri Lanka, người dân phải xếp hàng dài nhiều km để đổ đầy một bình nhiên liệu. Ở Bangladesh, các cửa hàng đóng cửa lúc 20h để tiết kiệm năng lượng. Tại Ấn Độ và Pakistan, tình trạng mất điện buộc các trường học và cơ sở kinh doanh phải đóng cửa, người dân phải sống trong cảnh ngột ngạt vào những đợt nắng nóng gay gắt khi không có điều hòa.
Đây chỉ là một số tình cảnh khó khăn đang diễn ra ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, nơi nhiều quốc gia phải đối mặt với cuộc khủng hoảng năng lượng tồi tệ nhất trong nhiều năm qua.
Nguyên nhân gây ra khủng hoảng năng lượng
Trong khi mỗi quốc gia châu Á đối mặt với hoàn cảnh khác nhau, tất cả đều bị ảnh hưởng bởi tác động kép của đại dịch Covid-19 và cuộc xung đột Nga – Ukraine. Hai sự kiện này đã làm ảnh hưởng đến nguồn cung và an ninh năng lượng trong khu vực.
Các chuyên gia cho rằng, cuộc khủng hoảng năng lượng nằm ở việc không cân bằng giữa cung và cầu.
Trong vài năm qua, Covid-19 khiến nhu cầu năng lượng giảm ở mức thấp bất thường, với mức tiêu thụ điện toàn cầu giảm hơn 3% trong quý I năm 2020 do các nhà máy đóng cửa và các hạn chế phòng dịch khiến người lao động phải ở nhà và các chuyến tàu chở nhiên liệu bị kẹt ở cảng.
Nhưng hiện tại, khi các nước dần đẩy lùi đại dịch, nhu cầu về nhiên liệu đã tăng vọt. Giá than, dầu và khí đốt tăng cao kỷ lục.
Theo CNN, giá năng lượng tăng cao là do ảnh hưởng của chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga ở Ukraine. Khi Mỹ và nhiều đồng minh áp đặt lệnh trừng phạt nhằm vào dầu của Nga, một số quốc gia đã phải tranh giành để tìm nguồn cung thay thế, khiến cuộc cạnh tranh về nguồn cung năng lượng ngày càng khốc liệt hơn.
Giá nhập khẩu năng lượng đang tăng đột biến trên toàn cầu, với giá than cao gấp 5 lần và giá khí đốt tự nhiên cao gấp 10 lần so với năm 2021. Các chuyên gia đã đưa ra những lý do khiến một số quốc gia châu Á, đặc biệt là những nước đang phát triển phụ thuộc vào nhập khẩu, bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc khủng hoảng năng lượng.
“Một nền kinh tế mới nổi như Sri Lanka đang phải mua dầu, mua khí đốt tự nhiên. Điều này thực sự rất khó khăn. Các quốc gia châu Á đang phải trả nhiều hơn cho những thứ họ cần trong khi những thứ họ bán ra không tăng giá. Bởi vậy, họ đang bỏ ra nhiều tiền hơn để cố gắng mua những thứ tương tự nhằm duy trì hoạt động của nền kinh tế”, Mark Zandi, chuyên gia kinh tế tại công ty phân tích Moody’s Analytics nhận định.
“Pakistan và Sri Lanka đang chịu tác động của giá cả nhưng họ cũng chịu tác động của nguồn cung năng lượng. Các nước này phải trả nhiều tiền hơn cho năng lượng. Bên cạnh đó, Pakistan đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn cung”, Antoine Halff, nhà nghiên cứu cấp cao tại Trung tâm Chính sách Năng lượng Toàn cầu của Đại học Columbia, cho biết.
“Báo động đỏ” ở châu Á
Tuần trước, Bộ trưởng Năng lượng Sri Lanka Kanchana Wijesekera, cho biết nước này sắp hết nhiên liệu.
Sri Lanka đã đóng cửa trường học và tạm dừng tất cả dịch vụ chính phủ không thiết yếu trong bối cảnh nguồn nhiên liệu đang cạn dần. Công chức được yêu cầu nghỉ ngày thứ 6 hàng tuần trong 3 tháng tới, chủ yếu vì tình trạng thiếu nhiên liệu khiến việc đi lại trở nên khó khăn và để khuyến khích họ trồng trọt.
Pakistan cũng giảm số ngày làm việc chính thức mỗi tuần từ 6 ngày xuống còn 5 ngày trong nỗ lực giảm tiêu thụ năng lượng. Động thái này diễn ra trong bối cảnh quốc gia Nam Á này bị cắt điện kéo dài nhiều giờ đồng hồ mỗi ngày do nhu cầu sử dụng vượt quá sản lượng trong những tháng cao điểm mùa hè.
“Chúng tôi đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng năng lượng nghiêm trọng”, Bộ trưởng Thông tin Pakistan Marriyum Aurangzeb nói.
Nhiều ý kiến cho rằng khủng hoảng năng lượng chỉ xảy ra ở các quốc gia nghèo và kém phát triển. Tuy nhiên, tình hình ở Australia, một trong những nước có tài sản trung bình với mỗi người trưởng thành cao nhất thế giới, cũng không mấy khả quan.
Kể từ tháng 5, Australia đã hoạt động mà không có 25% năng lượng từ than đá, một phần do kế hoạch ngừng hoạt động để bảo trì, một phần do gián đoạn nguồn cung.
Giống như Pakistan và Bangladesh, Australia hiện đang khuyến khích người dân tiết kiệm năng lượng. Bộ trưởng Năng lượng và Biến đổi khí hậu Chris Bowen đã yêu cầu các hộ gia đình ở bang New South Wales không sử dụng điện trong 2 giờ vào mỗi buổi tối.
Điều tồi tệ đối với phần còn lại của thế giới
CNN nhận định rằng cách các quốc gia châu Á phản ứng trước cuộc khủng hoảng năng lượng có thể gây ra một vấn đề lớn hơn việc giá năng lượng tăng.
Trước áp lực của người dân, một số nước có thể quay trở lại sử dụng nhiên liệu hóa thạch “bẩn”, chẳng hạn như than đá, bất chấp ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.
Ủy ban An ninh Năng lượng của Australia đã đề xuất rằng tất cả các nhà máy phát điện, bao gồm cả các nhà máy đốt than, phải được trả tiền để duy trì thêm công suất trong mạng lưới điện quốc gia nhằm ngăn chặn tình trạng mất điện.
Ý kiến này vấp phải sự chỉ trích rằng chính phủ Australia đã đi ngược lại với cam kết về năng lượng tái tạo.
Quyết định tăng nhập khẩu than của Ấn Độ, quốc gia phụ thuộc vào khoảng 70% năng lượng từ than, có thể gây ra những ảnh hưởng sâu sắc đến môi trường.
Các nhà khoa học cho rằng việc giảm mạnh khai thác than là cần thiết để hạn chế những tác động tồi tệ của sự nóng lên toàn cầu. Tuy nhiên, điều này sẽ khó đạt được nếu không có sự hợp tác của một trong những quốc gia phát thải carbon lớn nhất thế giới.
“Bất kỳ quốc gia nào, có thể là Ấn Độ, Đức, hay Mỹ, giảm gấp đôi bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào, lượng khí thải carbon sẽ giảm đáng kể. Đây là một vấn đề toàn cầu”, Sandeep Pai, trưởng nhóm nghiên cứu cấp cao của Chương trình Năng lượng của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, cho biết.
Chuyên gia Pai cho rằng quyết định của Ấn Độ có thể chỉ là “phản ứng tạm thời đối với cuộc khủng hoảng năng lượng”, nhưng nếu 1-2 năm tới các nước tiếp tục dựa vào than đá thì điều này sẽ ảnh hưởng đáng kể đến cuộc chiến chống nóng lên toàn cầu.
“Nếu các nước tiếp tục sử dụng than, mục tiêu giữ mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu ở 1,5-2 độ C sẽ ngày càng trở nên khó khăn. Quy mô và nhu cầu sử dụng năng lượng của Ấn Độ đồng nghĩa với việc nếu nước này tăng gấp đôi lượng than, chúng ta sẽ gặp phải một vấn đề thực sự nghiêm trọng về khí hậu”, nhà nghiên cứu Pai nói./.