Vị thế của nghiên cứu cơ bản khi bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc

Chiều 12/12, tại Hà Nội, diễn ra hội thảo 'Vai trò, vị thế của nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn khi bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc'.

Hội thảo do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp cùng Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức.

"Hệ điều hành" cho mọi chính sách phát triển

Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Đoàn Minh Huấn, Phó Giám đốc Thường trực Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho biết, nhân loại đang chứng kiến sự chuyển dịch mạnh mẽ của thời đại: sự bùng nổ của công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn; sự biến đổi sâu sắc của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa; sự phức tạp của các vấn đề toàn cầu như bất bình đẳng xã hội, biến đổi khí hậu, xung đột lợi ích, bảo vệ giá trị nhân văn...

Ông Đoàn Minh Huấn, Phó Giám đốc Thường trực Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Ông Đoàn Minh Huấn, Phó Giám đốc Thường trực Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Những đổi thay nhanh chóng đó không chỉ mang đến những cơ hội mà còn đặt ra nhiều thách thức mới, đòi hỏi tư duy khoa học phải được nâng tầm, phải đổi mới toàn diện cả về lý luận, phương pháp và cách thức tiếp cận.

Trong bối cảnh này, khoa học xã hội và nhân văn giữ một vai trò đặc biệt giúp con người hiểu chính mình, hiểu xã hội, hiểu động lực của phát triển và các quy luật vận động của đời sống. Càng trong thời đại chuyển đổi mạnh mẽ, chúng ta càng cần những nền tảng lý luận sâu sắc để định hướng sự phát triển, để hoạch định chính sách, để đảm bảo sự phát triển hài hòa, bền vững và mang tính nhân văn.

"Nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Vì vậy, không chỉ là dựng xây tri thức; nó còn là nền tảng để củng cố hệ giá trị, để định hình tương lai, để giữ gìn bản sắc và chủ động thích ứng với thế giới đang biến đổi" - ông Đoàn Minh Huấn khẳng định.

Theo ông Đoàn Minh Huấn, đối với mỗi quốc gia, hệ thống tri thức lý luận đóng vai trò "hệ điều hành" cho mọi chính sách phát triển. Nếu thiếu nền tảng khoa học xã hội và nhân văn vững chắc, phát triển sẽ thiếu định hướng, đổi mới sẽ thiếu bền vững, hội nhập sẽ thiếu bản lĩnh và tiến bộ xã hội sẽ thiếu chiều sâu giá trị.

Trong suốt chiều dài lịch sử, khoa học xã hội và nhân văn đã chứng minh vai trò đặc biệt và không thể thay thế trong tiến trình phát triển của mỗi quốc gia. Đây là lĩnh vực góp phần làm sáng tỏ bản chất của con người và xã hội, giải thích các quy luật vận động của lịch sử, từ đó giúp chúng ta hiểu được những động lực và giới hạn của sự phát triển.

Không chỉ dừng lại ở việc lý giải thế giới, khoa học xã hội và nhân văn còn giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền tảng tư tưởng của dân tộc, hình thành hệ giá trị và bản sắc, bồi đắp những phẩm chất đạo đức và văn hóa cốt lõi của con người Việt Nam.

Đồng thời, lĩnh vực này cung cấp cơ sở khoa học tin cậy cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước, giúp các quyết sách trở nên phù hợp, bền vững và mang tính nhân văn sâu sắc.

Bên cạnh đó, khoa học xã hội và nhân văn còn góp phần định hướng dư luận xã hội, nuôi dưỡng niềm tin, tăng cường sự đồng thuận và củng cố sức mạnh đoàn kết trong cộng đồng - những yếu tố đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định và phát triển lâu dài của đất nước.

"Gốc rễ" của tri thức khoa học

Ông Đoàn Minh Huấn nhấn mạnh, ngày nay, khi công nghệ phát triển mạnh mẽ, khi trí tuệ nhân tạo có thể mô phỏng ngôn ngữ, phân tích dữ liệu và hỗ trợ ra quyết định, giá trị của khoa học xã hội và nhân văn càng trở nên không thể thay thế. Bởi vì những vấn đề căn cốt nhất như giá trị, đạo đức, chuẩn mực xã hội, năng lực tư duy, bản lĩnh chính trị, ý thức trách nhiệm… chỉ có thể được lý giải và định hướng thông qua các nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn mang tính nghiêm cẩn, chuẩn xác và sâu sắc.

Hội thảo "Vai trò, vị thế của nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn khi bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc"

Hội thảo "Vai trò, vị thế của nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn khi bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc"

Nghiên cứu cơ bản không chỉ nhằm trả lời câu hỏi “cái gì” và “như thế nào”, mà còn hướng đến "vì sao" của mọi hiện tượng xã hội. Nó là gốc rễ của tri thức khoa học. Không có nghiên cứu cơ bản, chúng ta không thể có nền tảng lý luận vững chắc để phát triển nghiên cứu ứng dụng hoặc hoạch định chính sách.

Theo đó, Phó Giám đốc Thường trực Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nhấn mạnh, trong bối cảnh mới, nghiên cứu cơ bản có những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng:

Một là, làm sáng tỏ những quy luật mới của đời sống xã hội. Các hiện tượng xã hội đang thay đổi nhanh chóng, từ hành vi con người đến cấu trúc kinh tế, đến môi trường thông tin số. Nghiên cứu cơ bản giúp chúng ta xác định bản chất của những biến đổi đó và dự đoán xu hướng trong tương lai.

Hai là, xây dựng hệ giá trị và bản sắc trong thời đại toàn cầu hóa. Khi sự giao thoa văn hóa diễn ra mạnh mẽ, nghiên cứu cơ bản giúp nhận diện, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa nhân loại một cách chủ động và có chọn lọc.

Ba là, cung cấp nền tảng lý luận cho chiến lược phát triển quốc gia. Từ lý luận chính trị đến triết học, kinh tế học, xã hội học, tâm lý học…, mỗi lĩnh vực đều góp phần vào việc lý giải thực tiễn, dự báo xu thế và đề xuất khuyến nghị chính sách.

Bốn là, góp phần nhân văn hóa phát triển công nghệ. Trong thời đại AI và tự động hóa, nghiên cứu cơ bản về nhân văn học giúp đảm bảo công nghệ phải phục vụ con người, bảo vệ các giá trị đạo đức, củng cố sự phát triển hài hòa giữa công nghệ và xã hội.

PGS.TS Đào Ngọc Chiến, Giám đốc cơ quan điều hành Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia

PGS.TS Đào Ngọc Chiến, Giám đốc cơ quan điều hành Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia

PGS.TS Đào Ngọc Chiến, Giám đốc cơ quan điều hành Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (NAFOSTED) cho rằng, nghiên cứu cơ bản trong khoa học, xã hội và nhân văn có 4 vai trò lớn:

Thứ nhất, nền tảng tri thức khoa học mới như làm rõ bản chất các hiện tượng xã hội, văn hóa, con người; xây dựng hệ thống khái niệm, lý thuyết, phương pháp - nền tảng cho toàn bộ khoa học xã hội và nhân văn; góp phần định hình các “khung phân tích” mà nghiên cứu ứng dụng và hoạch định chính sách dựa vào.

Thứ hai, cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối, chính sách như cung cấp bằng chứng thực nghiệm, phân tích định tính - định lượng giúp hoạch định chính sách xã hội, văn hóa, giáo dục, an sinh, phát triển bền vững; dự báo xu thế, nhận diện rủi ro và lựa chọn quyết sách tối ưu; đóng góp cho thiết kế các chương trình phát triển con người, cải cách thể chế, chuyển đổi số, văn hóa số.

Thứ ba, nâng cao năng lực học thuật và chất lượng nguồn nhân lực nghiên cứu. Đây là môi trường đào tạo và rèn luyện thế hệ nhà khoa học mới; tạo động lực xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, trung tâm nghiên cứu liên ngành.

Thứ tư, đóng góp vào tri thức toàn cầu như giới thiệu các dữ liệu thực nghiệm, điển hình phát triển và kinh nghiệm Việt Nam ra quốc tế; phản biện và bổ sung lý thuyết quốc tế từ góc nhìn Việt Nam và châu Á; tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu: phát triển bền vững, biến đổi khí hậu, di cư, bất bình đẳng, biến động xã hội, văn hóa số.

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Quỹ NAFOSTED luôn xác định nghiên cứu cơ bản là nhiệm vụ trung tâm, có ý nghĩa đặt nền tảng cho hệ thống tri thức quốc gia. Trong nhiều năm qua, các cơ quan đồng tổ chức đã triển khai nhiều chương trình, đề tài, dự án quan trọng; nuôi dưỡng đội ngũ nghiên cứu; thúc đẩy công bố khoa học; hỗ trợ các hoạt động học thuật; góp phần xây dựng môi trường khoa học chuẩn mực và hội nhập.

Quỳnh Nga

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/vi-the-cua-nghien-cuu-co-ban-khi-buoc-vao-ky-nguyen-moi-cua-dan-toc-434515.html