Vị vua nào trong sử Việt có tài bắn súng bách phát bách trúng?
Trong lịch sử nước nhà có vị vua nổi tiếng với tài bắn súng, được sử sách ghi nhận như một thiện xạ.
Người được nhắc đến chính là vua Gia Long (1762-1820), tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (thường gọi Nguyễn Ánh).
Năm 1792, vua Quang Trung mất, nội bộ nhà Tây Sơn suy yếu, lợi dụng cơ hội đó Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn. Năm 1802 ông lên ngôi vua, lấy niên hiệu Gia Long, mở ra triều đại quân chủ mới - triều Nguyễn.
Năm 1804, vua Gia Long đổi quốc hiệu nước ta thành Việt Nam. Ông được đánh giá là vị vua có công rất lớn trong việc thống nhất, mở mang bờ cõi nước ta với vùng đất rộng lớn từ ải Nam Quan đến đất mũi Cà Mau.
Gia Long còn được biết đến là vị vua nổi tiếng với khả năng bắn súng thiện xạ.
Bộ sử Quốc triều chính biên toát yếu viết: “Tháng 3, năm Nhâm Dần, năm thứ 3 (năm 1782, tính từ năm Nguyễn Ánh lên ngôi vương ở Gia Định), quân Tây Sơn chiếm lấy Sài Gòn. Lúc lâm trận, ngài (chúa Nguyễn Ánh) bắn súng điểu thương hay lắm, bắn đâu trúng đó”.
Theo sách Việt sử khảo luận, súng điểu thương cò bằng đá lửa, bắn xa độ 250 đến 300 thước. Muốn bắn, xạ thủ phải lấy thuốc súng bỏ vào nòng, dùng cây thông nòng nén thuốc vào cho chặt rồi bỏ viên chì rồi bóp cò cho viên đá nảy lửa làm cháy thuốc ngòi. Nhiều khi bóp cò, đá lửa không bật lửa, người bắn lại phải tháo ra nhồi lại tốn hơn gấp đôi thời giờ.
Súng mang tên điểu thương vì nóng súng dài và lắp đầu nhọn như cái giáo (thương), còn đầu cò bật vào đánh lửa để khai hỏa trông như cái đầu chim (điểu). Dù đây là loại vũ khí được châu Âu sử dụng từ thế kỷ 17 nhưng khi đến các nước châu Á ở thế kỷ 18 vẫn cực kỳ hữu dụng.
Theo sách Đại Nam thực lục chính biên, năm 1791 Nguyễn Ánh thông qua một người nước ngoài - Budinonhi gửi mua tại Bồ Đào Nha 10.000 súng điểu thương, 2.000 cỗ súng gang mỗi cỗ nặng một trăm cân, 2.000 viên đạn nổ đường kính 10 tấc. Trong các cuộc giao chiến với Tây Sơn sau này, Nguyễn Ánh toàn dùng loại vũ khí này.
Sau khi đánh tan quân Tây Sơn và lên ngôi Hoàng đế, khẩu súng điểu thương của vua Gia Long được lưu giữ để làm kỷ niệm. Sách Quốc triều chính biên toát yếu cho biết: “Khẩu súng của ngài, đến triều Minh Mạng, được phong là Võ công lương khí, được tống tàng cùng áo nhung nón chiến của ngài ở trong điện”.
Tuy nhiên sau cuộc khởi nghĩa bất thành của vua Hàm Nghi năm 1885, quân Pháp chiếm giữ kinh thành và cướp đi rất nhiều vàng bạc châu báu cũng như kỷ vật của triều Nguyễn.
Đến khi vua Đồng Khánh lên ngôi, trong danh sách châu báu, cổ vật quân Pháp trả lại cho triều Nguyễn, liên quan đến vua Gia Long chỉ có nén vàng làm tin mà nhà vua giao cho Thừa Thiên Cao hoàng hậu Tống Thị Lan khi chia tay ở đảo Phú Quốc. Khẩu súng điểu thương không còn tông tích.