Việt Nam có thể trở thành hình mẫu phát triển bền vững
Với 7 trụ cột chính sách then chốt, GS. TS Andreas Stoffers, Đại học FOM Essen (Đức) tin rằng, Việt Nam không chỉ thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, mà còn có thể trở thành hình mẫu phát triển bền vững, sáng tạo và toàn diện trong thế kỷ 21.
PV: Là người đã từng có nhiều năm nghiên cứu và làm việc tại Việt Nam, quan sát diễn biến tăng trưởng của kinh tế Việt Nam thời gian qua, theo ông, Việt Nam đang ở giai đoạn nào trên lộ trình phát triển kinh tế so với các quốc gia đã thành công vượt bẫy thu nhập trung bình?
GS. TS. Andreas Stoffers: Kinh nghiệm thực tế tại Việt Nam trong nhiều lĩnh vực - từ ngân hàng, phát triển kinh tế đến giảng dạy - tôi có thể khẳng định, nền kinh tế Việt Nam có khả năng thích ứng và chuyển đổi rất đáng chú ý. Quý II/2025, GDP của Việt Nam tăng 7,96%, mức cao nhất trong 20 năm qua. Dù thế giới đang đối mặt với nhiều bất ổn như lãi suất tăng, giá hàng hóa biến động hay căng thẳng địa chính trị, Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng vượt trội so với nhiều nước trong khu vực.

GS. TS. Andreas Stoffers
Việt Nam cần duy trì tốc độ tăng trưởng 6 - 7% mỗi năm
Để đạt mục tiêu thu nhập cao, Việt Nam cần duy trì tốc độ tăng trưởng 6 - 7% mỗi năm trong hai thập kỷ tới. Mục tiêu này chỉ khả thi nếu năng suất lao động tăng mạnh. Điều đó đòi hỏi sự nâng cấp toàn diện về giáo dục, hạ tầng, hệ thống pháp lý và tài chính. Việt Nam không thể trì hoãn những cải cách khó khăn này.
Khác với nhiều nền kinh tế đang phát triển còn phụ thuộc vào lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên, Việt Nam chuyển mình sang nền kinh tế dựa trên tri thức, công nghiệp hóa và sản xuất giá trị cao hơn. Chúng ta đã thấy rõ điều này khi Việt Nam ngày càng sản xuất nhiều sản phẩm công nghệ cao, thu hút các tập đoàn lớn như Samsung, các nhà cung ứng của Apple và mới đây là SAP (Đức) với kế hoạch đầu tư R&D trị giá 150 triệu EUR.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn chuyển đổi. Thu nhập bình quân đầu người tăng ổn định, nhưng vẫn chưa vượt qua bẫy thu nhập trung bình - tình trạng nhiều quốc gia bị chững lại sau khi đạt mức thu nhập trung bình mà không thể tiến lên nhóm thu nhập cao. Hàn Quốc và Singapore đã thành công thoát bẫy này nhờ đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục, hạ tầng và chất lượng thể chế. Việt Nam cũng đang đi theo hướng đó, nhưng theo cách riêng phù hợp với bối cảnh của mình.
PV: Ông đánh giá thế nào về các cơ hội và thách thức với mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045 của Việt Nam?
GS. TS. Andreas Stoffers: Chiến lược “Tầm nhìn 2030” và “Tầm nhìn 2045” đã vạch ra một lộ trình rõ ràng cho sự phát triển của Việt Nam. Mục tiêu rất tham vọng: trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và đạt nhóm thu nhập cao vào năm 2045. Nhưng đây không chỉ là những con số, mà là một sự chuyển đổi toàn diện - từ mô hình sản xuất giá rẻ sang tăng trưởng bền vững dựa trên đổi mới sáng tạo.
Cơ hội dành cho Việt Nam là rất lớn. Lợi thế về nhân khẩu học nổi bật với lực lượng lao động trẻ, tỷ lệ sử dụng Internet cao và khả năng tiếp cận công nghệ nhanh chóng. Số liệu năm 2025 cho thấy Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về tỷ lệ sở hữu tiền điện tử - minh chứng cho sự cởi mở của người dân với đổi mới và chấp nhận rủi ro.
Các yếu tố vĩ mô cũng khá tích cực: nợ công ở mức vừa phải (khoảng 34% GDP), tiền tệ ổn định, lạm phát được kiểm soát. Việt Nam đã ký 17 hiệp định thương mại tự do, trong đó có Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), cùng với vị trí chiến lược ở trung tâm ASEAN, giúp đất nước kết nối thuận lợi với chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tuy nhiên, để đạt mục tiêu thu nhập cao, Việt Nam cần duy trì tốc độ tăng trưởng 6 - 7% mỗi năm trong hai thập kỷ tới. Mục tiêu này chỉ khả thi nếu năng suất lao động tăng mạnh. Điều đó đòi hỏi sự nâng cấp toàn diện về giáo dục, hạ tầng, hệ thống pháp lý và tài chính. Việt Nam không thể trì hoãn những cải cách khó khăn này.
Điều quan trọng là trong thời gian gần đây, Việt Nam đã bắt đầu những bước đi đúng hướng: cải cách thủ tục hành chính, xây dựng lộ trình chuyển đổi số rõ ràng. Những biện pháp này đang tạo nền tảng chính sách vững chắc để đất nước tiếp tục bứt phá trong tương lai.
PV: Ông có bình luận gì về “Bộ tứ trụ cột” Nghị quyết của Bộ Chính trị đối với mục tiêu đến năm 2030 và năm 2045?
GS. TS. Andreas Stoffers: Bốn trụ cột được Bộ Chính trị xác định thể hiện tầm nhìn chiến lược và tham vọng lớn, đưa ra một lộ trình rõ ràng giúp Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.
Nghị quyết 57-NQ/TW nhấn mạnh vai trò của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đây là hướng đi cho tăng trưởng chất lượng, nhất là ở các lĩnh vực công nghệ cao, xanh và số hóa.
Nghị quyết 59-NQ/TW tập trung vào hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu nhiều biến động, giúp Việt Nam đa dạng hóa đối tác thương mại - đầu tư, tránh phụ thuộc quá mức vào một thị trường.
Nghị quyết 66-NQ/TW đề cập cải cách quy trình xây dựng và thực thi pháp luật. Phát triển kinh tế hiện đại đòi hỏi luật pháp minh bạch, linh hoạt và tham vấn rộng rãi. Đây là chìa khóa để tăng niềm tin nhà đầu tư, bảo đảm thực thi hợp đồng và giảm thủ tục hành chính.
Nghị quyết 68-NQ/TW khẳng định khu vực kinh tế tư nhân là động lực then chốt của tăng trưởng. Mục tiêu là nâng số doanh nghiệp tư nhân lên 2 triệu vào năm 2030, đóng góp 60 - 65% GDP. Nghị quyết cũng đề xuất nhiều cơ chế hỗ trợ như tín dụng, cải cách thuế, và chính sách đất đai thuận lợi hơn cho khởi nghiệp và đổi mới.
Theo quan điểm của tôi, cả 4 nghị quyết đều là bước tiến quan trọng. Trong đó, Nghị quyết 57-NQ/TW mang tính quyết định để Việt Nam khẳng định vị thế trong nền kinh tế số và công nghệ cao, nhưng sự thành công phụ thuộc nhiều vào phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương. Nghị quyết 59-NQ/TW có tầm nhìn đúng đắn về hội nhập và đa dạng hóa. Nghị quyết 66-NQ/TW là cải cách cần thiết, hứa hẹn tạo “cú hích” cho cả đầu tư trong và ngoài nước khi luật pháp ổn định và minh bạch hơn. Với Nghị quyết 68-NQ/TW, tôi hoàn toàn ủng hộ việc coi khu vực kinh tế tư nhân là động lực tăng trưởng, vì tương lai phải dựa vào sáng tạo và cạnh tranh thị trường thay vì chỉ trông chờ vào doanh nghiệp nhà nước.
Ngoài ra, theo tôi, cả 4 nghị quyết nên lồng ghép cam kết mạnh mẽ hơn về tăng trưởng xanh và tài chính xanh, để quá trình hiện đại hóa kinh tế gắn liền với phát triển bền vững và bảo vệ môi trường.
PV: Nhìn vào tình hình kinh tế Việt Nam những năm gần đây, ông có khuyến nghị giải pháp nào để Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình và đạt được mục tiêu tăng trưởng cao?
GS. TS. Andreas Stoffers: Để đạt mục tiêu năm 2030 và năm 2045, Việt Nam cần tập trung vào 7 trụ cột chính sách:
Thứ nhất, trao quyền cho khu vực tư nhân. Thực thi đầy đủ Nghị quyết 68, đẩy nhanh cải cách doanh nghiệp nhà nước theo hướng minh bạch và cạnh tranh hơn. Thủ tục hành chính, đặc biệt về cấp phép, hải quan và đất đai, phải tiếp tục được tinh giản.
Hai là, đẩy nhanh chuyển đổi số. Không chỉ đổi mới, Việt Nam cần dẫn dắt bằng khung pháp lý. Luật Công nghiệp Công nghệ số 2025 về tài sản số, AI và blockchain là bước tiên phong, cần được bổ sung bằng quy định rõ ràng về định danh số, bảo mật dữ liệu và fintech. Kế hoạch triển khai đồng tiền số của Ngân hàng Nhà nước (CBDC) có thể đưa Việt Nam thành hình mẫu tài chính số bao trùm, nếu đi kèm với bảo mật mạnh mẽ và không thay thế hoàn toàn tiền mặt.
Ba là, cải cách giáo dục và kỹ năng. Việt Nam cần gấp rút đưa kỹ năng số, hiểu biết AI, kinh tế nền tảng vào chương trình đào tạo. Đồng thời, mở rộng mô hình đào tạo nghề kép, gắn với thực hành. Giáo viên, giảng viên phải được đào tạo lại để thích ứng với phương pháp mới.
Bốn là, thử nghiệm đổi mới qua “regulatory sandbox” (khuôn khổ thử nghiệm có kiểm soát). Xây dựng môi trường thử nghiệm an toàn cho fintech, AI, blockchain… Cơ quan quản lý cần đồng hành và hướng dẫn startup, thay vì chỉ tập trung vào xử phạt.
Năm là, thúc đẩy tăng trưởng xanh theo hướng thực tế. Việt Nam là quốc gia dễ bị tổn thương bởi thiên tai, nên chính sách xanh cần phù hợp điều kiện của từng địa phương. Thay vì áp đặt từ trên xuống, nhà nước nên hỗ trợ các giải pháp thị trường, nhất là năng lượng tái tạo, logistics xanh và nông nghiệp bền vững. Bộ tiêu chuẩn ESG cần được điều chỉnh theo thực tiễn Việt Nam, tránh cực đoan ý thức hệ, đồng thời bảo đảm phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường.
Sáu là, giữ cân bằng kinh tế vĩ mô và ngoại giao. Ổn định kinh tế vĩ mô là nền tảng. Việt Nam cần kiểm soát nợ công, kiềm chế lạm phát và duy trì hệ thống ngân hàng vững mạnh. Ngoài ra, Việt Nam cần tiếp tục phát huy “ngoại giao cây tre” - linh hoạt, độc lập, đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu.
Cuối cùng là, phát triển các trung tâm tài chính quốc tế. Đẩy nhanh xây dựng trung tâm tài chính tại TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, biến các thành phố này thành "cổng vào" cho fintech, tài chính xanh và dòng vốn toàn cầu, qua đó củng cố vị thế kinh tế của Việt Nam trong khu vực.
Nếu được triển khai đồng bộ, 7 giải pháp trên sẽ không chỉ giúp Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, mà còn có thể trở thành hình mẫu phát triển bền vững, sáng tạo và toàn diện trong thế kỷ 21.
PV: Xin cảm ơn ông!
Cải cách phải tương thích với quá trình xây dựng một nền kinh tế thị trường hiện đại
TS. Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh.
Trong gần 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã gặt hái được những thành tựu ấn tượng. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất đối với Việt Nam hiện nay là làm thế nào để thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”, hiện thực hóa khát vọng trở thành nền kinh tế có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045, cùng cam kết “phát thải ròng bằng 0” vào năm 2050.
Để đạt được mục tiêu trên, Việt Nam cần cả tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế cao, đồng thời với thúc đẩy phát triển bền vững, bao trùm, trong khi quan hệ tương tác giữa cải cách bên trong và hội nhập quốc tế trở nên sâu sắc hơn rất nhiều. Đây là nhiệm vụ hết sức khó khăn, phức tạp khi Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều vấn đề tồn đọng hoặc mới nảy sinh.
Đây thực sự là thời điểm có tính quyết định của Việt Nam trong chuyển đổi phương thức phát triển với một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Việt Nam cần hành động và Việt Nam có nền tảng để làm điều đó. Chìa khóa chính là việc hiện thực hóa lợi thế đất nước, tiềm năng con người Việt Nam và cải cách thể chế trong một nền kinh tế chuyển đổi ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới.
Những nền móng cơ bản về thể chế cho giai đoạn cất cánh, phát triển nhanh, bền vững đã, đang được định hình, thiết lập. Đột phá cải cách có thành công hay không tùy thuộc rất lớn vào ý chí, sự quyết liệt và trách nhiệm giải trình của lãnh đạo các cấp và các nhà hoạch định chính sách, biết đón nhận xu thế, biết kết hợp các nguồn lực và cả quản trị rủi ro. Không kém phần quan trọng, đột phá cải cách cần được thực hiện với sự tham gia rộng rãi, thực chất của người dân, doanh nghiệp. Trong mọi trường hợp, cải cách phải tương thích với quá trình xây dựng một nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Với cách thức thực hiện cải cách - có nguyên tắc nhưng đủ linh hoạt, quyết đoán khi cần thiết và biết kết hợp với cả cách tiếp cận “từ dưới lên” và “từ trên xuống” cùng hợp tác quốc tế sâu rộng, chân thành, “cùng thắng”, Việt Nam hoàn toàn có thể đẩy nhanh cải cách để đạt được các mục tiêu phát triển đầy tham vọng cũng như tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một nước Việt Nam có thể “sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng mạnh mẽ theo chiều sâu
TS. Đặng Đức Anh - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược, Ban Chính sách, chiến lược Trung ương
Chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực trong hơn một thập kỷ qua, thể hiện qua việc cải thiện năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn và đóng góp ngày càng rõ nét của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng.
Tuy nhiên, những kết quả đạt được vẫn chưa đáp ứng kỳ vọng khi tốc độ tăng năng suất lao động có dấu hiệu chững lại, mức độ ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo còn hạn chế và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vẫn ở mức thấp so với khu vực. Trong bối cảnh nhiều thách thức từ bất ổn toàn cầu, sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, biến đổi khí hậu và sự thu hẹp của lợi thế dân số vàng, Việt Nam cần chuyển đổi mô hình tăng trưởng mạnh mẽ hơn theo chiều sâu, dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đồng thời, việc hoàn thiện thể chế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, đầu tư cho nghiên cứu và triển khai, nâng cao năng lực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo sẽ là những yếu tố then chốt, quyết định khả năng duy trì tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế. Nâng cao chất lượng tăng trưởng không chỉ là yêu cầu tất yếu, mà còn là con đường duy nhất để Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình và hướng tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững trong những thập niên tới.
Tuấn Nguyễn (ghi)
Cần “bùng nổ” đầu tư công nghệ - hạ tầng, nâng cao năng suất lao động
Chuyên gia kinh tế - TS. Nguyễn Văn Hiến.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, Việt Nam có nguy cơ rất lớn rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Theo Ngân hàng Thế giới, năm 2024, Việt Nam thuộc nhóm thu nhập trung bình thấp, GDP bình quân đầu người khoảng 4.300 - 4.500 USD, tăng trưởng kinh tế trong 30 năm qua duy trì bình quân lớn hơn 6%/năm, động lực chủ yếu đến từ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), gia công xuất khẩu và lao động giá rẻ, năng suất lao động của Việt Nam còn khá thấp… Khi phân tích năng lực nội tại, nền kinh tế Việt Nam cũng có những lợi thế nhất định để thoát bẫy thu nhập trung bình so với các quốc gia đã mắc phải, đó là: Việt Nam có nền chính trị ổn định, hội nhập quốc tế sâu rộng và ngày càng có hiệu quả, vị trí địa chính trị - kinh tế thuận lợi, dân số đông hơn 100 triệu người với thị trường nội địa lớn, lực lượng lao động dồi dào đang ở thời kỳ dân số vàng, đã có nhiều bài học kinh nghiệm từ các quốc gia khác.
Tuy nhiên, như vậy là chưa đủ, Nhà nước cần phải cải cách mạnh mẽ hơn nữa về thể chế, giải phóng năng lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, tập trung vào tăng trưởng xanh và phát triển bền vững…
Trong 6 tháng đầu năm 2025, Việt Nam đã đạt con số tăng trưởng 7,52%, nên về đích với tốc độ tăng trưởng 8% năm nay là trong tầm tay. Tuy nhiên, việc phấn đấu từ năm 2026 phải đạt tốc độ tăng trưởng trên 10% lại là câu chuyện khác.
Đối với Việt Nam, viễn cảnh kinh tế tăng trưởng trên 10% từ năm 2026 thì kịch bản sẽ như sau: GDP đạt khoảng 1.200 - 1.300 tỷ USD vào năm 2035, vượt xa Malaysia, tiệm cận Hàn Quốc giai đoạn 1990.
Theo đó, điều kiện cần để đạt được các con số ấn tượng trên, cần “bùng nổ” đầu tư công nghệ - hạ tầng, hoàn thành mạng lưới cao tốc, đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, trung tâm logistics quốc tế, trung tâm tài chính quốc tế, trung tâm dịch vụ quốc tế ở các đô thị lớn.
Năng suất lao động tăng khoảng 7 - 8%/năm nhờ ứng dụng rộng rãi trí tuệ nhân tạo, robot hóa, công nghiệp 4.0; doanh nghiệp nội địa lớn mạnh, có ít nhất 10 tập đoàn tư nhân tầm cỡ khu vực và thế giới.
Thị trường xuất khẩu bứt phá, tận dụng tối đa các khu vực tự do mậu dịch mà Việt Nam đã ký kết FTA, phát triển mạnh ngành công nghệ số, dịch vụ tài chính, thương mại điện tử; ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát dưới 4%, nợ công dưới 60% GDP.