Việt Nam duy trì vị trí 44 trên bảng xếp hạng đổi mới sáng tạo toàn cầu
Chiều 16/9 theo giờ Việt Nam, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) công bố Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index – GII) năm 2025 tại Geneva. Theo kết quả, Việt Nam được xếp hạng 44/139 quốc gia, nền kinh tế, duy trì thứ hạng của năm 2024. Đây là minh chứng cho nỗ lực cải thiện bền bỉ của Việt Nam trong nhiều năm qua, đặc biệt khi GII ngày càng trở thành công cụ tham chiếu quan trọng cho các chính phủ trong hoạch định chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Thành tích nổi bật trong bảng xếp hạng
Trong năm 2025, Việt Nam tiếp tục giữ vị trí thứ hai trong nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình thấp, chỉ sau Ấn Độ. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam vượt lên trên Thái Lan, đứng thứ ba sau Singapore và Malaysia. Báo cáo của WIPO cũng ghi nhận Việt Nam là một trong chín quốc gia thu nhập trung bình cải thiện thứ hạng nhanh nhất kể từ năm 2013. Đồng thời, Việt Nam cùng Ấn Độ là hai quốc gia liên tiếp 15 năm đạt thành tích vượt trội so với mức độ phát triển, cho thấy hiệu quả trong việc chuyển đổi các nguồn lực đầu vào thành kết quả đầu ra đổi mới sáng tạo.

Ông Daren Tang, Tổng giám đốc WIPO tại lễ công bố Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index – GII) năm 2025
Năm nay, Việt Nam có 03 chỉ số đứng đầu thế giới gồm nhập khẩu công nghệ cao, xuất khẩu công nghệ cao và xuất khẩu hàng hóa sáng tạo (lần đầu tiên dẫn đầu toàn cầu ở chỉ số này). Bên cạnh đó, nhiều chỉ số khác thuộc nhóm 10 quốc gia đứng đầu như: Tốc độ tăng năng suất lao động (hạng 4), số lượng ứng dụng điện thoại thông minh được tạo ra (hạng 7) hay phần chi nghiên cứu và phát triển do doanh nghiệp trang trải/tổng chi nghiên cứu và phát triển (hạng 8). Đây là những minh chứng rõ nét cho thấy sự dịch chuyển tích cực của khu vực doanh nghiệp, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.
Ở nhóm chỉ số đầu vào ĐMST, Việt Nam có sự cải thiện tại các trụ cột Thể chế, Trình độ phát triển thị trường và Trình độ phát triển doanh nghiệp. Chỉ số về sự ổn định của các quy định, chính sách về môi trường kinh doanh, tăng 14 bậc so với năm 2023, xếp hạng 28; hiệu quả thực thi pháp luật tăng 5 bậc, xếp hạng 67; mức độ đa dạng của sản xuất trong nước tăng 10 bậc, xếp hạng 13.

Ông Marco M. Alemán, Trợ lý Tổng Giám đốc WIPO, chủ trì phiên trình bày về Kết quả GII 2025
Ở đầu ra đổi mới sáng tạo, nhiều chỉ số có tiến bộ như đơn đăng ký sáng chế quốc tế tăng 17 bậc, tổng chi cho phần mềm máy tính tăng 7 bậc, hay tính phức tạp của sản xuất và xuất khẩu tăng 9 bậc. Những kết quả này phản ánh rõ nỗ lực liên tục trong việc nâng cao năng lực công nghệ, thúc đẩy sáng chế và gia tăng giá trị của sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Thách thức cần tiếp tục khắc phục
Bên cạnh kết quả tích cực, một số chỉ số của Việt Nam vẫn ở mức thấp hoặc suy giảm. Trong nhóm Thể chế, chỉ số chất lượng các quy định pháp luật chỉ đứng hạng 95; hiệu quả thực thi pháp luật tuy tăng bậc nhưng vẫn ở hạng 67. Ở lĩnh vực giáo dục, chi cho giáo dục giảm 10 bậc xuống hạng 116; tỷ lệ học sinh/giáo viên trung học và khả năng thu hút sinh viên quốc tế tiếp tục hạn chế, phản ánh những điểm yếu cần khắc phục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Về cơ sở hạ tầng, chỉ số hạ tầng công nghệ thông tin của Việt Nam đứng hạng 69, có cải thiện 3 bậc so với năm trước, nhưng một số thành phần vẫn giảm điểm như chỉ số truy cập ICT (hạng 77, giảm 2 bậc) và sử dụng ICT (hạng 54, giảm 6 bậc). Nhóm bền vững sinh thái giảm 8 bậc, xuống hạng 63. Các chỉ số về đầu tư mạo hiểm chưa được cải thiện, khiến nhóm đầu tư giảm 12 bậc, còn hạng 62. Trong khi đó, một số chỉ số về sản phẩm tri thức và công nghệ cũng ở mức thấp như số công bố bài báo khoa học và kỹ thuật (hạng 105, giảm 8 bậc), xuất khẩu dịch vụ ICT (hạng 103, giảm 8 bậc). Ở trụ cột sản phẩm sáng tạo, chỉ số xuất khẩu dịch vụ văn hóa và sáng tạo đứng hạng 95, giảm 14 bậc, còn chỉ số phim truyện quốc gia được sản xuất trên 1 triệu dân (độ tuổi 15-69) xếp hạng 87, giảm 11 bậc.

Bảng xếp hạng GII các quốc gia năm 2025
Cũng cần phải nhìn nhận khách quan, từ năm 2017 đến nay, chỉ số GII của Việt Nam liên tục được cải thiện, tăng từ vị trí 59 (năm 2016) lên 44 năm 2024/133 quốc gia, nền kinh tế.
Như vậy, dù còn những hạn chế, việc duy trì vị trí 44 trong bối cảnh số lượng quốc gia được xếp hạng tăng từ 133 lên 139 cho thấy nỗ lực của Việt Nam trong việc củng cố năng lực đổi mới sáng tạo. Thành tích 15 năm liên tiếp đạt kết quả cao hơn mức độ phát triển phản ánh xu hướng tích cực trong khai thác và chuyển đổi nguồn lực, tạo tiền đề để Việt Nam tiếp tục củng cố vị thế trong khu vực cũng như trên thế giới. Đây là cơ sở quan trọng để các bộ, ngành, địa phương tiếp tục triển khai giải pháp đồng bộ, nâng cao chất lượng thể chế, nguồn nhân lực và hạ tầng, qua đó tạo động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn tới.