Vụ 600 nhãn hiệu sữa giả, vì sao không một bộ ngành nào chịu trách nhiệm toàn diện?
Đại biểu Quốc hội chỉ rõ vụ 600 nhãn hiệu sữa giả đã phơi bày rõ nét sự buông lỏng và thiếu cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong kiểm soát chất lượng sản phẩm hàng hóa…
Chiều 6-5, Quốc hội thảo luận ở tổ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Vụ 600 nhãn hiệu sữa giả, lỗ hổng trong hậu kiểm
Tại phiên thảo luận, đại biểu Nguyễn Như So (đoàn Bắc Ninh) đánh giá sau hơn 17 năm triển khai thi hành, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã củng cố hành lang pháp lý trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế mở, nhiều quy định hiện hành đã bộc lộ những hạn chế, thiếu đồng bộ. Đặc biệt, các vấn đề liên quan đến truy xuất nguồn gốc, quản lý chất lượng trong thương mại điện tử, trách nhiệm của nhà sản xuất trong chuỗi cung ứng...
“Chính vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa là một yêu cầu cấp thiết và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng”, đại biểu So nói.
Về quy định công bố hợp chuẩn, hợp quy, đại biểu So cho rằng cần nghiên cứu, xem xét bãi bỏ thủ tục công bố hợp quy, thay vào đó là áp dụng mô hình doanh nghiệp công bố quy chuẩn áp dụng cho sản phẩm và cơ quan quản lý kiểm tra, giám sát theo quản lý rủi ro.
Theo ông, đây là quy định rất hình thức, nhiêu khê, gây tốn kém thời gian, chi phí cho doanh nghiệp, không mang lại hiệu quả thực chất trong hoạt động quản lý nhà nước.

Đại biểu Nguyễn Như So (đoàn Bắc Ninh).
Đại biểu So lưu ý về trách nhiệm quản lý nhà nước, dự thảo luật cần rà soát, điều chỉnh theo hướng tăng tính minh bạch, phân định rõ ràng trách nhiệm quản lý nhà nước của từng bộ, ngành theo lĩnh vực được phân công, tránh chồng chéo, buông lỏng quản lý hoặc bỏ trống trách nhiệm.
Đồng thời, cần thiết lập rõ vai trò chủ trì và cơ chế phối hợp liên ngành một cách hiệu quả giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm về chất lượng sản phẩm hàng hóa.
“Thực tế, vụ việc gần 600 nhãn hiệu sữa giảđược sản xuất và lưu hành công khai trong suốt 4 năm qua đã phơi bày rõ nét sự buông lỏng và thiếu cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong kiểm soát chất lượng hàng hóa. Đây không chỉ là vụ việc cá biệt mà còn là dấu hiệu cho thấy những lỗ hổng mang tính hệ thống trong thiết kế chính sách và tổ chức thực thi”, đại biểu So nhấn mạnh.
Theo ông, cơ chế hậu kiểm vốn là định hướng đúng đắn phù hợp với thông lệ quốc tế và chủ trương cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, nâng cao tính chủ động trách nhiệm của doanh nghiệp.
“Thế nhưng, khi thiếu năng lực hậu kiểm, thiếu cơ chế phối hợp, thiếu sự liên thông giữa các cơ quan quản lý nhà nước thì cơ chế này trở thành kẽ hở để lợi dụng, né tránh trách nhiệm pháp lý và kiểm soát chất lượng”, ông So nêu quan điểm.
Trong vụ việc trên, theo ông, có sự chồng chéo, phân tán và thiếu thống nhất trong phân công trách nhiệm giữa Bộ Y tế, Bộ Công Thương, chính quyền địa phương... Điều này dẫn đến không có một cơ quan nào thực sự chịu trách nhiệm toàn diện.
Khi hậu quả xảy ra, việc quy trách nhiệm trở nên mơ hồ vì tất cả đều liên quan nhưng không ai là đầu mối chịu trách nhiệm cuối cùng. Điều này dẫn đến tình trạng đùn đẩy, đá bóng trách nhiệm.
“Việc sửa đổi luật cần giải quyết tận gốc vấn đề này bằng cách thiết lập rõ mô hình quản lý rõ ràng, trong đó quy định cụ thể cơ quan chủ trì, cơ chế phối hợp liên ngành, trách nhiệm hậu kiểm gắn với chế tài thực thi đủ mạnh"- ông So nói và cho rằng chỉ khi xây dựng được cơ chế quản lý đồng bộ, rõ ràng và có tính ràng buộc cao thì chất lượng sản phẩm hàng hóa mới thực sự được kiểm soát và quyền lợi người tiêu dùng mới được bảo đảm.
Sản phẩm kém phải bồi thường cho khách hàng
Trong khi đó, đại biểu Phạm Khánh Phong Lan (TP HCM) đề xuất nghiên cứu và định nghĩa rõ ràng về cơ chế bồi thường thiệt hại với những sản phẩm không đảm bảo chất lượng. Theo bà, điều này đặc biệt có liên quan trong trường hợp công dân tiêu thụ các sản phẩm nhà nước đã tuyên bố là “an toàn”, nhưng cuối cùng lại là hàng giả, hàng kém chất lượng.
Bà Lan cho rằng việc thực hiện cơ chế như trên sẽ giúp người dân tránh được những mất mát và khó khăn. Đồng thời sẽ tạo động lực cho người tiêu dùng báo cáo các vấn đề nếu họ mua phải sản phẩm lỗi, thay vì chỉ “chịu đựng sự mất mát”.
“Hiện nay, khi chưa có cơ chế đền bù rõ ràng như vậy, người dân thường “nuốt đắng” và đành chịu nếu gặp vấn đề với sản phẩm”, bà Lan cho hay.

Đại biểu Nguyễn Thị Kim Anh (đoàn Bắc Ninh).
Cùng đề cập đến điều kiện bảo đảm chất lượng hàng hóa, đại biểu Nguyễn Thị Kim Anh (đoàn Bắc Ninh) đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo giải trình về sự cần thiết đối với “hàng hóa nhập khẩu thuộc danh mục có mức độ rủi ro trung bình, thì yêu cầu tổ chức cá nhân nhập khẩu phải công bố hợp quy theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng trước khi đưa ra lưu thông trên thị trường”.
Theo bà, nội dung này đã được nhiều hiệp hội, doanh nghiệp có ý kiến đề nghị bỏ công bố hợp quy, thay vì cơ chế tiền kiểm, cần chuyển sang hậu kiểm, nhằm cắt giảm thủ tục không cần thiết, trao quyền tự chịu trách nhiệm cho doanh nghiệp đối với sản phẩm hàng hóa do mình nhập khẩu.
“Cơ quan chủ trì soạn thảo đã đánh giá tác động kỹ lưỡng chưa khi quy định như dự thảo luật có thể là rủi ro để các đối tác thương mại gây khó trong đàm phán mở cửa thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, đặc biệt là sản phẩm, hàng hóa nông lâm thủy sản?”, bà Nguyễn Thị Kim Anh đặt vấn đề.
Từ phân tích trên, nữ đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu thấu đáo, cầu thị, tiếp thu để “tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định, an toàn, dễ thực thi, chi phí thấp, đạt chuẩn quốc tế, bảo đảm khả năng cạnh tranh” mà Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân đã chỉ rõ.
“Nội dung này tôi cũng đề nghị xem xét, chỉnh lý Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật có liên quan mật thiết với dự thảo luật này và cũng được trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp này”, đại biểu này kiến nghị.