Vun bồi nội lực cho doanh nghiệp tư nhân

Nhằm đưa Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình, trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, cần phát triển và vun bồi nội lực giúp doanh nghiệp tư nhân vươn mình, tham gia đóng góp tích cực hơn vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Dây chuyền lắp ráp xe bus của Công ty cổ phần Tập đoàn Trường Hải.Ảnh: HẢI NAM

Khu vực kinh tế tư nhân - một động lực quan trọng

Trong giai đoạn năm 2016-2021, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp bình quân khoảng gần 46% GDP, tạo ra khoảng 30% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động; tỷ lệ đóng góp thuế thu nhập doanh nghiệp chiếm khoảng 34,1%, cao hơn mức đóng góp 27,7% của các doanh nghiệp nhà nước.

Đáng chú ý, sự đóng góp của kinh tế tư nhân vào tổng thu ngân sách nhà nước đã tăng từ 13,88% năm 2016 lên 18,5% năm 2021 và chiếm khoảng 35% tổng kim ngạch nhập khẩu, 25% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Với những đóng góp đó, khu vực tư nhân là một trong những động lực quan trọng tạo việc làm, giảm nghèo, cải thiện điều kiện sống, thúc đẩy tăng trưởng toàn diện và bền vững tại Việt Nam. Thế nhưng, hiện nhiều dấu hiệu cho thấy, khu vực này đang "đuối sức".

TS Bùi Thanh Minh cho rằng, khu vực kinh tế tư nhân ngày càng bị lấn át bởi khu vực FDI (72,52% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam là đến từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Điều này thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau, từ những con số đo lường được đến những khía cạnh định tính, như cảm giác bị phân biệt đối xử của chủ doanh nghiệp.

Thực tế, hiện có tới 72,52% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam là đến từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, trong khi khu vực FDI xuất khẩu các mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật và giá trị gia tăng cao thì doanh nghiệp nội địa lại chủ yếu xuất các nguyên liệu, sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm công nghiệp nhẹ, thâm dụng lao động.

Ngược lại, có dấu hiệu cho thấy có những rào cản nhất định khiến doanh nghiệp nội địa khó khăn trong đầu tư, sản xuất, kinh doanh.

Các khảo sát của Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân trong 2 năm qua luôn cho thấy niềm tin của chủ doanh nghiệp ở khu vực kinh tế tư nhân luôn thấp và phục hồi chậm hơn khu vực doanh nghiệp nhà nước và FDI.

Điều này cũng dễ hiểu khi số liệu mới đây của Tổng cục Thống kê đã cho thấy một diễn biến ảm đạm khi số doanh nghiệp rút khỏi thị trường trong tháng đầu năm 2025 tăng mạnh. Cụ thể, trong tháng 1/2025, cả nước có 52,8 nghìn doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn; gần 3,5 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể; và 2.021 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 8,3%. Tổng số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 58,3 nghìn, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước. So với cùng kỳ năm 2024, số doanh nghiệp đăng ký mới trong tháng 1/2025 giảm tới 30,3% và số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn tăng 20,2%. Như vậy, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường lại cao gấp 5 lần số doanh nghiệp thành lập mới. Tình trạng này chưa từng diễn ra trong nhiều năm nay.

TS Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam nhận định, điều này cho thấy doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhất là các doanh nghiệp tư nhân. Ông Bình cũng chỉ ra những dấu hiệu đáng lo ngại về hệ số hiệu quả sử dụng vốn (ICOR) đầu tư tư nhân. Cụ thể, năm 2010 khu vực kinh tế nhà nước cần 9,8 đồng để tạo ra 1 đồng GDP thì khu vực kinh tế tư nhân chỉ cần sử dụng 4,3 đồng để tạo ra 1 đồng GDP. Tuy nhiên, xu hướng này đã đảo ngược trong giai đoạn từ khi bùng phát dịch Covid-19 cho tới nay. Khu vực tư nhân hiện cần đến 23 đồng để tạo ra 1 đồng GDP trong khi khu vực kinh tế nhà nước vẫn duy trì trình độ cũ. Đây là một chỉ dấu đáng lo ngại.

Nhiều doanh nghiệp tư nhân chú trọng đầu tư trang thiết bị, công nghệ. Ảnh: NAM ANH

Tăng nội lực cho doanh nghiệp tư nhân

Trước thực tế này, TS Lê Duy Bình cho rằng, cần tăng nội lực cho doanh nghiệp tư nhân và tập trung phát triển thêm doanh nghiệp để phát triển theo hướng bền vững.

Ông nhấn mạnh, việc thành lập doanh nghiệp không khó, nhưng để doanh nghiệp tồn tại và phát triển lâu dài thì có rất nhiều việc phải làm. "Đã đến lúc Chính phủ cần chú ý đến mục tiêu phát triển doanh nghiệp đang hoạt động thay vì hướng đến mục tiêu là số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới. Chính phủ cũng cần có các biện pháp cải cách mang tính đột phá nhằm thúc đẩy sự hình thành của một khung pháp lý thuận lợi, phù hợp với loại hình doanh nghiệp cá thể", ông Bình nói.

Bên cạnh việc khuyến khích chuyển đổi doanh nghiệp, TS Bùi Thanh Minh nhấn mạnh, Nhà nước cần củng cố niềm tin ở khối doanh nghiệp tư nhân, tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh ở khu vực này.

Theo đó, Nhà nước cần có hệ sinh thái chính sách. Như là, hỗ trợ khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME). Mục tiêu chính là tạo ra môi trường thuận lợi để doanh nghiệp hoạt động và phát triển, tích lũy vốn, công nghệ, nguồn lực khác để có thể trở thành những doanh nghiệp lớn, dẫn dắt nền kinh tế. Các chính sách hỗ trợ khởi nghiệp và phát triển SME thường ở các dạng như vườn ươm (incubation), hỗ trợ tài chính, thuế...

Từ những doanh nghiệp này, chính sách sẽ tập trung vào nhóm doanh nghiệp có tiềm năng tốt, phát huy được cao nhất năng lực của mình bằng việc áp dụng công nghệ hiện đại. Trung Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) là những thí dụ điển hình trong việc áp dụng mô hình "người đi sau" khi các viện nghiên cứu tài trợ bởi vốn Nhà nước tìm kiếm các công nghệ hiện đại ở nước ngoài và áp dụng rộng rãi vào bối cảnh của quốc gia, nhờ đó doanh nghiệp đã nâng cấp được năng lực công nghệ và sáng tạo, đóng góp cao vào chuỗi giá trị toàn cầu. Bên cạnh đó là các chương trình hỗ trợ tập trung vào việc phát triển sản phẩm mới, nâng cao năng lực R&D và khuyến khích khởi nghiệp vào các lĩnh vực mới, điển hình như công nghệ sinh học.

Ngoài ra, cũng cần có chính sách công nghiệp và huy động đầu tư nội địa. Chính sách công nghiệp hiệu quả là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của nhóm doanh nghiệp.

Đặc biệt, ngoài các ngành nghề được hỗ trợ, vẫn phải khuyến khích cạnh tranh gay gắt, công bằng đối với doanh nghiệp nội địa. Với các chuyển động địa chính trị hiện tại, Việt Nam có cơ hội lớn gia nhập chuỗi giá trị bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI) toàn cầu. Bên cạnh đó là các ngành công nghiệp mới gắn với quá trình chuyển đổi xanh của thế giới để đạt được mục tiêu Net-Zero vào năm 2050.

Mặt khác, thu hút đầu tư nước ngoài phải gắn với yêu cầu chuyển giao công nghệ. Trong giai đoạn đầu, vai trò của FDI là vô cùng quan trọng. Nếu có chính sách thúc đẩy liên kết, chuyển giao công nghệ giữa doanh nghiệp FDI và nội địa thì hiệu quả và tác động của doanh nghiệp FDI đến nền kinh tế sẽ tốt hơn.

Trong tỷ lệ đóng góp gần 40% vào GDP của kinh tế tư nhân thì 75% đến từ khu vực kinh tế tư nhân không chính thức. Vì vậy, TS Lê Duy Bình cho rằng, khuyến khích các hộ kinh doanh cá thể và các thực thể kinh tế cá thể khác chuyển đổi thành doanh nghiệp vẫn là hướng đi phù hợp để phát triển doanh nghiệp bền vững.

Theo Báo Nhân dân

Nguồn Sơn La: https://baosonla.org.vn/kinh-te/vun-boi-noi-luc-cho-doanh-nghiep-tu-nhan-0ehH3H5Hg.html