'Xanh hóa' - đòn bẩy giúp doanh nghiệp vật liệu xây dựng phát triển bền vững
'Xanh hóa' không chỉ là xu thế mà còn là điều kiện sống còn để ngành vật liệu xây dựng phát triển bền vững, phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam như Net Zero vào năm 2050.

Hệ thống phát điện tận dụng nhiệt khí thải giúp xi măng Tân Thắng tiết kiệm 80 tỷ đồng tiền điện mỗi năm. Ảnh: CTV
Hệ thống phát điện tận dụng nhiệt khí thải (WHR) công suất 8.650 kW vừa được Nhà máy xi măng Tân Thắng (xã Tân Thắng, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) đưa vào sử dụng mang lại “lợi ích kép” cho Công ty CP Xi măng Tân Thắng trong hiệu quả sử dụng năng lượng. Hệ thống này giúp doanh nghiệp tiết kiệm 25-30% lượng điện phải mua từ EVN tương đương mức giảm 78-80 tỷ đồng mỗi năm. Đồng thời, góp phần không nhỏ cho an ninh năng lượng, giảm áp lực cho hệ thống truyền tải điện quốc gia, nhất là trong mùa cao điểm.
Hiệu quả đầu tư của xi măng Tân Thắng cũng giống như nhiều doanh nghiệp trong nhóm sản xuất vật liệu xây dựng khác đang hướng tới, đó không chỉ là câu chuyện về giảm thiểu phát thải khí nhà kính, tiết kiệm năng lượng hay tận dụng nguyên liệu tái chế… mà còn góp phần giảm chi phí sản xuất.
Vật liệu xây dựng là lĩnh vực quan trọng trong ngành xây dựng; đồng thời là một trong những ngành tiêu thụ tài nguyên lớn nhất và góp phần đáng kể vào phát thải khí nhà kính tại Việt Nam. Với đặc thù tiêu thụ năng lượng lớn, sử dụng nguyên liệu khoáng sản không tái tạo và phát thải khí nhà kính cao, việc triển khai các tiêu chuẩn ESG (Môi trường – Xã hội – Quản trị) không chỉ là xu thế mà là điều kiện sống còn để ngành này phát triển bền vững, phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam như Net Zero vào năm 2050.
Theo số liệu kiểm kê, tổng phát thải khí nhà kính từ ngành sản xuất vật liệu xây dựng đã tăng mạnh từ 59,91 triệu tấn CO2 năm 2014 lên khoảng 109 triệu tấn CO2 vào năm 2024. Trong đó, ngành sản xuất xi măng chiếm khoảng 80–90% tổng lượng phát thải của ngành này. Đây là hồi chuông cảnh báo cần hành động ngay để giảm thiểu tác động môi trường.
Đáng chú ý, sản xuất xi măng là nguồn phát thải lớn nhất, chủ yếu do quá trình sản xuất clinker, trong đó khoảng 40–50% lượng CO2 phát thải đến từ quá trình này. Cùng đó, việc sử dụng năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch trong sản xuất vật liệu xây dựng cũng đóng góp đáng kể vào lượng phát thải khí nhà kính.
Việt Nam đặt mục tiêu giảm 74,3 triệu tấn CO2 trong ngành xây dựng đến năm 2030, chiếm khoảng 13% tổng lượng phát thải quốc gia. Để đạt được mục tiêu này, ngành xây dựng cần chuyển đổi sang sử dụng vật liệu xây dựng xanh, tăng cường hiệu quả năng lượng và giảm thiểu sử dụng nhiên liệu hóa thạch.
Tình trạng này cũng cho thấy, việc cam kết và triển khai ESG không chỉ giúp các công ty vật liệu xây dựng đáp ứng các yêu cầu bền vững trong nước và quốc tế mà còn mang lại lợi ích kinh tế, xã hội và chiến lược dài hạn.
Ông Hoàng Anh Tuấn - Tổng Giám đốc Công ty CP Xi măng Tân Thắng chia sẻ, dự án Hệ thống phát điện tận dụng nhiệt khí thải không chỉ góp phần thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 của Chính phủ mà còn thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp với cam kết đưa phát thải ròng về “0” (Net Zero) vào năm 2050 mà Việt Nam đã đưa ra tại Hội nghị COP26.
Dự án này giúp Công ty tiết kiệm khoảng 1/3 lượng điện năng tiêu thụ hàng tháng cho toàn bộ nhà máy. Đây không chỉ là một bước tiến đáng kể về mặt công nghệ mà còn mang lại lợi ích kinh tế bền vững với thời gian thu hồi vốn chỉ khoảng 6 năm. Công nghệ thu hồi nhiệt - phát điện được kỳ vọng sẽ tạo nên mô hình sản xuất tiêu biểu, có thể nhân rộng trong ngành xi măng - một trong những ngành tiêu thụ năng lượng và phát thải lớn tại Việt Nam.
Không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế và môi trường, quá trình xây dựng và vận hành hệ thống WHR còn tạo thêm cơ hội việc làm cho người dân địa phương, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đây là hình mẫu cho các doanh nghiệp xi măng trong việc gắn kết phát triển kinh tế - bảo vệ môi trường - nâng cao đời sống cộng đồng – ông Tuấn nhấn mạnh.
Trong các thương hiệu mạnh về sản xuất xi măng, Vicem Hà Tiên cũng nổi lên như một điểm sáng về sản xuất xanh. Hiện nay, tỷ lệ sử dụng nhiên liệu thay thế trong sản xuất clinker của Vicem Hà Tiên đạt trên 28%. Vicem Hà Tiên cũng là nhà sản xuất xi măng tại Việt Nam sở hữu danh mục sản phẩm được trao nhiều chứng nhận “Nhãn xanh” từ Hội đồng công trình xanh Singapore nhiều nhất với 13 sản phẩm.

Dây chuyền phủ kính tiết kiệm năng lượng của Viglacera hướng tới mục tiêu Net Zero. Ảnh: Viglacera
"Xanh hóa" đang trở thành xu hướng tất yếu được nhóm ngành sản xuất vật liệu xây dựng. Tuy nhiên, để đạt các mục tiêu không thể nóng vội, làm ngày một ngày hai mà đôi khi là cả chặng đường dài và thành công của Tổng công ty Viglacera chính là dẫn chứng điển hình.
Việc thiết lập nên cả một hệ sinh thái vật liệu xây dựng xanh và phổ cập hệ sinh thái đến người tiêu dùng được các chuyên gia nhận xét là rất khó, thậm chí có những lúc tưởng chừng như “bất khả thi”. Thế nhưng, Viglacera đã chủ động triển khai trong suốt hành trình dài bền bỉ hơn 15 năm qua với đầy đủ chủng loại sản phẩm vật liệu xây dựng cơ bản từ kính xây dựng, sứ vệ sinh, gạch - đá ốp lát đến sen vòi…
Tổng giám đốc Công ty CP Kinh doanh Gạch ốp lát Viglacera - ông Mai Xuân Đức chia sẻ, hiện thông số tiết kiệm năng lượng cũng như khả năng ứng dụng đa dạng của các chủng loại vật liệu xây dựng mới do Viglacera sản xuất được người sử dụng đặc biệt quan tâm và tin chọn. Điển hình cho nhóm sản phẩm đầu tiên mang dấu ấn xanh của Viglacera phải kể đến bê tông khí chưng áp (AAC/ ALC), kính tiết kiệm năng lượng (LowE và Solar Control), kính siêu trắng, đá nung kết khổ lớn mang thương hiệu Vasta Stone giúp thay thế đá tự nhiên, thiết bị vệ sinh thông minh và sen vòi phủ theo công nghệ lắng đọng hơi vật lý PVD thân hiện môi trường… Tuy nhiên, để doanh nghiệp đạt thành tựu này không thể kể đến “trợ lực” chính sách trong phát triển dòng vật liệu xây dựng xanh. Ông Mai Xuân Đức cho biết, Chính phủ đã có nhiều chính sách để các doanh nghiệp tập trung phát triển sản phẩm xanh. Cùng đó, bản thân doanh nghiệp cũng phải truyền thông cho người tiêu dùng hiểu và các kiến trúc sư, đội ngũ thiết kế yên tâm lựa chọn. Do đó, tăng trưởng của các sản phẩm xanh không chỉ đạt mức 20% mà thậm chí tăng 30%/năm là điều khả quan. Trong bối cảnh hiện nay, việc xuất khẩu các sản phẩm xanh ra thế giới là cơ hội rất tốt cho các doanh nghiệp trong nước nói chung cũng như Viglacera nói riêng – ông Đức nhận định. Trong bối cảnh ngành xây dựng toàn cầu chuyển dịch sang hướng bền vững, Viglacera xác định "xanh hóa" sản xuất là chiến lược phát triển dài hạn. Viglacera không chỉ tập trung vào việc tạo ra các sản phẩm chất lượng cao, mà còn đặt trọng tâm vào việc bảo vệ môi trường, tối ưu hóa tài nguyên, góp phần xây dựng hệ sinh thái vật liệu xây dựng thân thiện với môi trường. Hệ sinh thái này bao gồm các sản phẩm đồng bộ từ vật liệu xây thô như bê tông khí chưng áp cho tới các vật liệu bao ngoài như kính tiết kiệm năng lượng, hoàn thiện nội thất có gạch ốp lát và thiết bị vệ sinh. Tất cả đều được sản xuất theo công nghệ tiên tiến, giảm thiểu tác động môi trường. Những nỗ lực này không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn giúp Viglacera khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế. Chất lượng và cam kết "xanh" đã đưa sản phẩm Viglacera vươn xa khỏi biên giới, đến hơn 40 quốc gia. Các xu hướng triển khai ESG trong ngành vật liệu xây dựng phản ánh sự chuyển dịch từ sản xuất truyền thống sang mô hình bền vững, được thúc đẩy bởi chính sách (Net Zero), thị trường (công trình xanh), và công nghệ (số hóa, carbon thấp). Tuy nhiên, để lan tỏa lợi ích này đến toàn ngành, cần sự hỗ trợ về tài chính, công nghệ và nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty nhỏ và vừa. Bởi dù được nhìn nhận là xu hướng tất yếu của phát triển bền vững, việc triển khai ESG vẫn còn gặp nhiều rào cản trên thực tế, đặc biệt là trong ngành vật liệu xây dựng – nơi quá trình chuyển đổi đang diễn ra chậm hơn so với nhiều lĩnh vực khác. Nguyên nhân không chỉ nằm ở yếu tố chi phí hay kỹ thuật, mà còn đến từ sự thiếu hụt nhận thức đầy đủ về giá trị dài hạn mà ESG mang lại. Chỉ khi doanh nghiệp hiểu và xem ESG như một phần thiết yếu trong chiến lược vận hành, thay vì một yêu cầu bên ngoài, thì việc chuyển đổi mới có thể thực sự hiệu quả và bền vững.