Xây dựng đội ngũ cán bộ dân số và Cộng tác viên đáp ứng nhiệm vụ nâng cao chất lượng dân số trong tình hình mới

Hướng tới mục tiêu nâng cao vị thế con người và sự phát triển bền vững, cùng với tập trung đẩy mạnh phát triển KT- XH, nâng cao mức sống cho người dân, Vĩnh Phúc đặc biệt quan tâm đến nâng cao chất lượng dân số và coi đây là động lực phát triển của tỉnh. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân số và cộng tác viên đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới được xem là một trong những mục tiêu quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu chuyển hướng thực hiện các mục tiêu về dân số. Nhân ngày Dân số Việt Nam (26/12), phóng viên Báo Vĩnh Phúc đã phỏng vấn đồng chí Nguyễn Hoài Nam, Chi cục trưởng Chi cục Dân số- Kế hoạch hóa (DS- KHHGĐ) gia đình tỉnh về nội dung này.

PV: Với những nỗ lực trong thực hiện các giải pháp hỗ trợ công tác dân số (DS) và phát triển, nhận thức và hành động của toàn xã hội về công tác DS đã được nâng lên; cơ cấu DS có sự thay đổi tích cực và chất lượng DS được cải thiện... Đồng chí cho biết những việc làm cụ thể để có được kết quả trên?

Đồng chí Nguyễn Hoài Nam: Thực hiện chỉ đạo của Trung ương, Vĩnh Phúc đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch, đề án về DS và phát triển. Trong đó có Nghị quyết số 205 của HĐND tỉnh về việc “Hỗ trợ kinh phí thực hiện chương trình DS- KHHGĐ trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016- 2020”; Nghị quyết số 16 của HĐND tỉnh về “Quy định một số chính sách hỗ trợ công tác DS và phát triển trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021- 2025”.

Sự quan tâm về cơ chế, chính sách cùng những giải pháp đồng bộ đã tạo sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức và hành động của các tổ chức và cá nhân. Công tác kiểm tra giám sát được chú trọng; tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác DS- KHHGĐ ổn định; cơ sở vật chất, trang thiết bị được tăng cường; qui mô DS được kìm chế có hiệu quả; cơ cấu DS chuyển biến tích cực, mất cân bằng giới tính khi sinh về cơ bản được kiểm soát, chất lượng DS được nâng lên.

Căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ được giao, Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh đã cụ thể hóa từng nội dung, chủ động xây dựng kế hoạch; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng, các huyện, thành phố củng cố, xây dựng mạng lưới cán bộ chuyên trách, đội ngũ cộng tác viên DS ở cơ sở.

Hiện nay, 9/9 huyện, thành phố trong tỉnh đã thành lập phòng DS- KHHGĐ thuộc Trung tâm Y tế huyện; 136 cán bộ chuyên trách cấp xã phụ trách công tác DS với gần 2.000 cộng tác viên.

Cùng với việc linh hoạt, đổi mới công tác DS, Chi cục DS- KHHGĐ tỉnh luôn chú trọng công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực, chất lượng hoạt động của cán bộ, cộng tác viên làm công tác DS.

Hằng năm, xây dựng Kế hoạch và triển khai chiến dịch “Tăng cường tuyên truyền vận động lồng ghép dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ đến vùng đông dân, có mức sinh cao và vùng khó khăn”.

Phối hợp với Bệnh viện Phụ Sản trung ương tầm soát các dị dạng, bệnh, tật bẩm sinh; kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh; nâng cao năng lực, truyền thông và giám sát, đánh giá thực hiện chương trình chất lượng hệ thống thông tin quản lý chuyên ngành DS-KHHGĐ.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 205 của HĐND tỉnh, tỷ lệ tăng DS tự nhiên ở Vĩnh Phúc đã giảm từ từ 1,5% năm 2015 xuống còn 1,13% năm 2020; mức giảm sinh còn 1,32%o; tỷ lệ sàng lọc trước sinh đạt 73%; 98% trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm và uống đầy đủ 6 loại vắc xin; tỷ suất sinh thô giảm xuống dưới 1,6%, thấp hơn mặt bằng chung của cả nước.

Cơ cấu DS theo độ tuổi đã thay đổi dần theo hướng tích cực, tỷ lệ DS trong độ tuổi lao động tăng, tỷ lệ DS phụ thuộc giảm; DS thành thị tăng trung bình mỗi năm khoảng 3-4%, đưa tỷ lệ DS thành thị đạt 30%. Đặc biệt, Vĩnh Phúc là một trong 20 tỉnh, thành đạt chỉ số phát triển con người (HDI) cao nhất cả nước.

PV: Đồng chí cho biết những hạn chế, khó khăn trong thực hiện công tác DS và một số mục tiêu cần thực hiện thời gian tới?

Đồng chí Nguyễn Hoài Nam: Bên cạnh kết quả đạt được, chất lượng DS ở Vĩnh Phúc vẫn còn hạn chế: Chỉ số phát triển con người chậm được cải thiện; số năm trung bình sống khỏe mạnh của người dân còn chưa cao.

Kết quả giảm sinh chưa đảm bảo được tính bền vững; số con trung bình của một phụ nữ trong tuổi sinh đẻ không đạt mức sinh thay thế. Chất lượng DS tuy cải thiện nhưng chưa nhiều, vấn đề về chăm sóc sức khỏe sinh sản chưa được giải quyết tốt.

Việc đáp ứng nhu cầu thông tin, kiến thức, dịch vụ về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục cho các nhóm dân số như người dân tộc thiểu số, người chưa thành niên, người di cư, người khuyết tật, người có HIV... còn hạn chế.

Phân bố dân cư, quản lý nhập cư, di dân còn nhiều bất cập; công tác truyền thông, giáo dục về DS ở một số khu vực, nhóm đối tượng hiệu quả chưa cao, còn chậm đổi mới, chưa phát huy được vai trò của công nghệ thông tin trong cung cấp thông tin…

Trên cơ sở xác định rõ nguyên nhân và để khắc phục những hạn chế trên, nhất là từng bức thực hiện thành công Nghị quyết số 21 của Trung ương về công tác DS trong tình hình mới, Vĩnh Phúc tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách DS từ KHHGĐ sang DS và phát triển nhằm phát triển toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, nhất là chất lượng DS, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững.

Chỉ đạo các cấp, các ngành, địa phương triển khai thực hiện tốt Nghị quyết số 16 của HĐND tỉnh về “Quy định một số chính sách hỗ trợ công tác DS và phát triển trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021- 2025”; Kế hoạch số 10 của UBND tỉnh về thực hiện Chiến lược DS Việt Nam. Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các biện pháp KHHGĐ.

Thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp tại Kế hoạch số 51/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Kế hoạch số 94/2018 của UBND tỉnh về việc thực hiện Nghị quyết số 21 của Trung ương, Vĩnh Phúc đã đặt mục tiêu cho từng giai đoạn và xây dựng phương án phát triển DS thời kỳ 2021- 2030. Trong đó, tiếp tục nỗ lực giảm mức sinh, tiến tới đạt mức sinh thay thế; đáp ứng đầy đủ nhu cầu, dịch vụ KHHGĐ an toàn, hiệu quả.

PV: Những giải pháp trọng tâm để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ trên là gì, thưa đồng chí?

Đồng chí Nguyễn Hoài Nam: Duy trì đội ngũ cộng tác viên DS và đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác DS các cấp, các ngành.

Thực hiện chuẩn hóa cán bộ làm công tác DS các cấp theo nguyên tắc vị trí việc làm và định hướng triển khai toàn diện công tác DS.

Thường xuyên cập nhật kiến thức mới, tổ chức tập huấn lại, bảo đảm đội ngũ nhân viên y tế thôn bản, cộng tác viên DS và đội ngũ người hoạt động không chuyên trách tại tổ dân phố.

Bảo đảm thống nhất nhận thức, hành động của cả hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận và ủng hộ của toàn xã hội về thực hiện quyết liệt, hiệu quả các biện pháp đưa nhanh mức sinh về mức sinh thay thế, ổn định qui mô DS, đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên.

Tận dụng hiệu quả lợi thế cơ cấu DS vàng; thích ứng với già hóa DS; nâng cao chất lượng DS. Đưa công tác DS là một nội dung trọng tâm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền.

Thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, phong trào thi đua về công tác DS.

Đề cao tính tiên phong gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu trong việc thực hiện chính sách DS, xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ, ấm no, hạnh phúc, tạo sự lan tỏa rộng trong toàn xã hội.

PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí.

Hồng Chiến (t/h)

Nguồn Vĩnh Phúc: http://baovinhphuc.com.vn/xa-hoi/71939/xay-dung-doi-ngu-can-bo-dan-so-va-cong-tac-vien-dap-ung-nhiem-vu-nang-cao-chat-luong-dan-so-trong-tinh-hinh-moi.html