Xây dựng và chỉnh đốn Đảng về đạo đức hiện nay. Kỳ 1: Thực trạng và một số vấn đề đặt ra

Có thể khẳng định, việc xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng Đảng từ gốc, xây dựng sức mạnh nội sinh cho cách mạng nước ta.

Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của Nhân dân. Kể từ khi ra đời đến nay, trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước xây dựng đội ngũ vững mạnh, có tổ chức vững mạnh, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, vì dân vì nước.

Sau 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, quốc phòng - an ninh… Một trong những dấu ấn nổi bật là những thành tựu về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó có công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng về đạo đức. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, Việt Nam cũng xuất hiện một số khó khăn, hạn chế, trong đó có tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Công tác đạo đức trong xây dựng Đảng chưa được đặt xứng tầm với các nội dung khác.

Thời gian qua, mục tiêu xây dựng Đảng về đạo đức là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với nhu cầu xây dựng Đảng, đáp ứng nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Có thể khẳng định, việc xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng Đảng từ gốc, xây dựng sức mạnh nội sinh cho cách mạng nước ta.

Yêu cầu cấp bách của việc thực hiện công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng về đạo đức trong tình hình hiện nay

Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, ngay từ đầu tư cách người cách mạng trở thành nhân tố hàng đầu trong xây dựng Đảng. Ngay từ năm 1927, khi viết tác phẩm Đường Cách mệnh, Người đã chỉ rõ hai yêu cầu của việc xây dựng Đảng, đó là Đảng phải giữ chủ nghĩa cho vững (về lý luận) và Đảng phải ít ham muốn về vật chất (về đạo đức). Người nhấn mạnh để giữ được điều thứ hai này là vô cùng khó khăn, vì thế phải rèn luyện đạo đức cách mạng là Cần, Kiệm, Liêm, Chính cho đảng viên.

Trong Di chúc, Người chỉ rõ: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam với lý tưởng suốt đời đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đem lại hạnh phúc cho nhân dân thì Đảng và những người cách mạng của Đảng phải luôn có đạo đức. Xây dựng Đảng về đạo đức bắt nguồn từ bản chất của Đảng.

Sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước ngày càng tăng lên. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, những yếu kém nội tại của nền kinh tế thị trường và những khuyết điểm, hạn chế trong lãnh đạo, quản lý chậm được khắc phục; tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đảng phải “kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của Nhân dân đối với Đảng” [4; tr.26].

Thực tế cho thấy không thực hiện tốt công tác đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm suy giảm niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ [13]. Muốn chống lại sự tha hóa của đảng viên, phải luôn rèn luyện dùng sức mạnh của đạo đức cách mạng. Càng phát triển kinh tế thị trường, càng phải xây dựng Đảng về đạo đức. Có như vậy, Đảng mới luôn là đạo đức, là văn minh.

Từ Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đến Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Đảng ta đã chỉ ra 27 biểu hiện suy thoái ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao. Suốt thời gian qua, Đảng quyết liệt chống tham nhũng. Đảng phải kiên quyết xử lý, dù đau đớn mấy cũng phải chấp nhận đối với những cá nhân không xứng đáng. Tuy nhiên, đến nay, việc khắc phục những yếu kém, khuyết điểm, suy thoái nghiêm trọng về đạo đức còn chậm, giải pháp chưa đủ mạnh. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt kết quả như mong muốn.

Từ bài học kinh nghiệm, sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu cho thấy nguyên nhân quan trọng là vì Đảng Cộng sản lúc bấy giờ đã suy thoái, biến chất do quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi. Bài học này vẫn còn nguyên tính thời sự, cho thấy nếu không xây dựng Đảng về đạo đức cũng sẽ không thể có tư tưởng lý luận tiên phong, không có sự liên hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân và rất dễ dàng lặp lại sự thất bại đó.

Có thể khẳng định, chưa bao giờ công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là yêu cầu ngăn chặn, đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực trong cán bộ, đảng viên lại được Đảng đặt ra cấp bách và khẩn thiết như thế. Đó cũng là thể hiện cho một thái độ đúng đắn, nghiêm túc, dám và biết nhìn thẳng vào sự thật, một tinh thần chiến đấu không khoan nhượng nhằm bảo vệ sự trong sạch, vững mạnh của Đảng. Qua đó, một lần nữa, đạo đức lại được đặt ra như một vấn đề cơ bản của công tác xây dựng Đảng, nguồn gốc tạo nên sức mạnh của Đảng, là nhân tố cực kỳ quan trọng để Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.

Thực trạng xây dựng Đảng về đạo đức những năm gần đây và nguyên nhân

Theo Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức của Đảng Cộng sản là đạo đức kiểu mới - đạo đức cách mạng được hình thành qua thực tiễn lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống áp bức, bóc lột, xây dựng chế độ mới công bằng, tốt đẹp. Đạo đức của Đảng Cộng sản bao gồm một hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi của tổ chức đảng và đảng viên trong mối quan hệ với bản thân, với công việc, với đồng chí và các tầng lớp nhân dân.

Xây dựng Đảng về đạo đức là toàn bộ hoạt động của Đảng, các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên với sự tham gia của các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân trong việc định hình, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng của Đảng.

Nội dung của công tác xây dựng Đảng về đạo đức thể hiện trên các mặt: về ban hành chủ trương về xây dựng Đảng về đạo đức; về hoạt động xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; về hoạt động tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, phòng và chống chủ nghĩa cá nhân của mỗi cán bộ, đảng viên trong Đảng, về trách nhiệm nêu gương; về công tác kiểm điểm tự phê bình và phê bình; về hoạt động tuyên truyền, bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng đạo đức cách mạng; về mối quan hệ giữa Đảng và Dân; về hoạt động kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm và kỷ luật trong Đảng và về hoạt động đấu tranh, phòng chống các quan điểm sai trái, thù địch.

Hoạt động xây dựng Đảng về đạo đức trong những năm gần đây đã đạt được một số thành tựu quan trọng góp phần vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay:

Việc ban hành chủ trương về xây dựng Đảng về đạo đức

Đảng đã nhìn nhận đúng đắn và xác định rõ vai trò, tầm quan trọng của đạo đức với tư cách là nhân tố cốt lõi của văn hóa Đảng; phải thường xuyên tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đề phòng nguy cơ thoái hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Xây dựng Đảng về đạo đức, về văn hóa là điểm mấu chốt, cốt lõi làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ, xứng đáng là đảng cầm quyền. Những vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, nhất là xây dựng Đảng về đạo đức được đánh giá rõ hơn, thực chất hơn và quyết liệt hơn trong ngăn chặn tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.

Các đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đều kiểm điểm, đánh giá và đề ra nhiệm vụ cơ bản về xây dựng Đảng trong đó đặc biệt nhấn mạnh xây dựng đạo đức đối với cán bộ và đảng viên như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII (tháng 2.1999) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”. Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đã ban hành nghị quyết về “Một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay”. Đây là một Nghị quyết rất quan trọng, đã lựa chọn đúng vấn đề, đánh giá đúng thực trạng và đề ra đúng các giải pháp để tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó có việc chấn chỉnh biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Đại hội lần thứ XII của Đảng, lần đầu tiên, Đảng nhận thức toàn diện về công tác xây dựng Đảng trên mọi lĩnh vực, mọi phương diện, mọi mối quan hệ; trong đó xác định một nội dung xây dựng Đảng mới đó là xây dựng Đảng về đạo đức. Đại hội XII khẳng định: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức” [5; tr.202]. Ngay từ đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng XII, BCH Trung ương đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, qua đó nhận diện 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Trung ương tiếp tục ban hành Nghị quyết 4 lần 2 (khóa XII). Bộ Chính trị ban hành Quy định số 55-QĐ/TW ngày 19.12.2016 về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên nhằm góp phần thực hiện hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII và tăng cường vai trò nên gương cho cán bộ, đảng viên. Quy định số 109-QĐ/TW ngày 3.1.2018 của BCH Trung ương về “Công tác kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Trong đó, xây dựng Đảng về đạo đức là “nền tảng”, là “cái gốc” cho Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Có thể nói, trong vòng gần 10 năm qua, chủ trương, đường lối về xây dựng Đảng nói chung, xây dựng Đảng về đạo đức nói riêng đã dần được khẳng định và hoàn thiện.

Về hoạt động xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng: Sau hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ các cấp, Đảng tổng kết và nhận xét xác đáng về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong thời gian qua: đội ngũ cán bộ có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề, lĩnh vực công tác có sự cân đối, hợp lý hơn; nguồn cán bộ quy hoạch khá dồi dào, cơ bản bảo đảm sự chuyển tiếp giữa các thế hệ. Ngay sau Đại hội XII của Đảng, Bộ Chính trị, BCH Trung ương đã quy hoạch xong đội ngũ cán bộ cao cấp, theo đó 551 cán bộ diện quy hoạch đã được học tập bồi dưỡng lý luận chính trị và hơn 100 người trong số đó được bầu vào BCH Trung ương [11; tr.129-130]. Bên cạnh đó, Đảng tiếp tục chú trọng, quan tâm bồi dưỡng thế hệ trẻ, là tương lai của đất nước, phục vụ cho sự nghiệp sáng tạo ra xã hội mới. Có thể thấy, sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của đội ngũ cán bộ thời gian qua là nhân tố then chốt, quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Về hoạt động tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, phòng và chống chủ nghĩa cá nhân của mỗi cán bộ, đảng viên trong Đảng, về trách nhiệm nêu gương: Trước tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường, bốn nguy cơ mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, nhất là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn diễn biến phức tạp, Tại Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh đến việc tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, mỗi đảng viên không ngừng tự giác rèn luyện, học tập, tu dưỡng để nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống với phương châm suốt đời phụng sự Tổ quốc và Nhân dân, lấy ấm no, tự do, hạnh phúc của Nhân dân làm lý tưởng hành động. Sự tự giác rèn luyện của mỗi đảng viên có vai trò quyết định hình thành nên đạo đức cách mạng. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ ở cấp chiến lược đã nhận thức sâu sắc được tầm quan trọng của việc xây dựng Đảng về đạo đức; ý thức trau dồi, rèn giũa bản thân về đạo đức; kiên quyết chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân trong lối sống của bản thân, gia đình. Nhiều tấm gương tích cực, điển hình về lối sống, nhân cách của cán bộ, đảng viên được nhân rộng. Việc làm, hành động của họ góp phần củng cố, tăng cường niềm tin, mối quan hệ giữa Đảng và Dân.

Đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp nêu gương về sự giác ngộ lý tưởng cộng sản, quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, tổ chức đơn vị thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao; thực hiện dân chủ, đoàn kết và kỷ luật, phát huy cao độ hiệu lực của mọi tổ chức, mọi lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ; gương mẫu trong công tác và lối sống, thương yêu cấp dưới, không quan liêu, độc đoán chuyên quyền, gia trưởng... Đã có nhiều chuyển biến tích cực trong thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là vai trò tiên phong, gương mẫu của các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên BCH Trung ương.

Về công tác kiểm điểm tự phê bình và phê bình

Tự phê bình và phê bình là một trong những nguyên tắc và quy luật phát triển Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Đại hội Đảng lần thứ XIII và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của công tác kiểm điểm tự phê bình và phê bình trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung, xây dựng Đảng về đạo đức nói riêng: “Kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng các giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ để ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trung ương đến chi bộ…”[8; tr.236].

Các cấp ủy, tổ chức đảng đã nghiêm túc chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm điểm tự phê bình và phê bình, đồng thời có sự chủ động chỉ đạo kiểm tra, chú trọng gợi ý kiểm điểm đối với những tập thể và cá nhân có dấu hiệu vi phạm. Năm 2017 các cấp ủy gợi ý kiểm điểm đối với 11.005 tập thể và 27.868 cá nhân; năm 2018, các cấp ủy gợi ý kiểm điểm 5.591 tập thể và 9.037 cá nhân; năm 2019, các cấp ủy gợi ý kiểm điểm 5.790 tập thể và 7.376 cá nhân [8; tr.176]. Từ đó, các cấp ủy, tổ chức đảng dành thời gian phù hợp cho việc kiểm tra, theo dõi, đôn đốc quá trình sửa chữa, khắc phục những sai lầm khuyết điểm sau khi đã tiến hành tự phê bình và phê bình.

Hoạt động tuyên truyền, bồi dưỡng, giáo dục lý tưởng đạo đức cách mạng: Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng thông qua tuyên truyền, bồi dưỡng, giáo dục cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Đảng xác định, không có giây phút nào được sao nhãng, chủ quan buông lơi nếu không cán bộ, đảng viên dễ bị sa vào chủ nghĩa cá nhân. Khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, tạo ra cơn chấn động chính trị đã tác động sâu sắc đến tư tưởng cán bộ, đảng viên và Nhân dân, Bộ Chính trị đã kịp thời ra Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18-2-1995 về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay, khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.

BCH Trung ương các khóa đã ban hành một số nghị quyết chuyên đề về công tác tư tưởng, nhất là tuyên truyền giáo dục đạo đức cách mạng trong thời kỳ mới, như: Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về xây dựng chỉnh đốn Đảng; Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7.6.2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các cấp, Quy định số 55-QĐ/TW ngày 19-12-2016 của Bộ Chính trị về một số việc cần làm ngay; Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25.10.2018 về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên BCH Trung ương Đảng; Ban Tuyên giáo Trung ương đề ra Hướng dẫn số 41/HD-BTGTW/2017 về bồi dưỡng giáo dục đạo đức cách mạng trong thời kỳ mới bao gồm một số vấn đề: Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội; truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam; tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ mới. Các cấp ủy, tổ chức đảng coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo sơ kết, tổng kết, tuyên truyền, nhân rộng những điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt” bằng nhiều hình thức phong phú, có tác dụng lan tỏa trong Đảng và trong xã hội. Từ đây, Ban Bí thư đã chỉ đạo sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15.5.2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thủ tướng Chính phủ khen thưởng 70 tập thể, 145 cá nhân tiêu biểu. Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức Lễ tổng kết đợt hoạt động “Tuổi trẻ Việt Nam nhớ lời Di chúc theo chân Bác”, biểu dương 392 đảng viên trẻ tiêu biểu [8; tr.177].

Về mối quan hệ giữa Đảng và Dân: Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, chính sách về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân như: Nghị quyết số 8-NQ/TW ngày 27.3.1990 về Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân; Quyết định số 290-QĐ/TW ngày 25-2-2010 của Bộ Chính trị khóa X ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị; Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 3.6.2013 về Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

Đảng luôn tạo điều kiện, cơ chế để Nhân dân được tham gia góp ý vào các văn bản dự thảo của Đảng. Đồng thời, Đảng luôn gần dân, lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân phản ánh về tình hình thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Với tinh thần cầu thị, biết lắng nghe ý kiến của Nhân dân, nên đường lối của Đảng luôn được bổ sung, phát triển, hoàn thiện phù hợp với lòng dân. Các cấp ủy, tổ chức đảng căn cứ tình hình thực tế ở địa phương, báo cáo, đề xuất của chính quyền, các đoàn thể đã có nhiều đổi mới trong việc điều tra, khảo sát thực tiễn, lấy ý kiến của Nhân dân để có định hướng lãnh đạo đúng, sát với cuộc sống, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng qua từng thời kỳ. Đảng luôn coi trọng phát huy sức mạnh, trí tuệ sáng tạo của Nhân dân. Nhiều đề xuất, sáng kiến của Nhân dân trong thực tiễn cuộc sống được Đảng tiếp thu, vận dụng đưa ra những quyết định quan trọng, có tính chiến lược ở những thời điểm khó khăn, thách thức của đất nước, do đó, nhiều nghị quyết, chính sách đúng đắn, xuất phát từ Nhân dân, đáp ứng lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc mới phát sinh.

Ngoài ra, dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò làm chủ của Nhân dân trong xây dựng và bảo vệ đất nước, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền được phát huy, thể hiện ở những việc làm cụ thể của Nhân dân: Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18.2.1998, “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”; Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 3-10-2017 về Ban hành hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của Nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của Ban Bí thư; Quy định số 124-QĐ/TW, ngày 2.2.2018 về giám sát của MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên; Quy định số 76-QĐ/TW về tự phê bình trước dân đối với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và những cán bộ trực tiếp giải quyết công việc có liên quan đến người dân.

Về hoạt động kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm và kỷ luật trong Đảng: Nhận thức được tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, nên khi bước vào công cuộc đổi mới, Đảng luôn coi trọng công tác kiểm tra, đánh giá để từ đó đưa ra những chủ trương, quy định cụ thể hơn cho sát với và phù hợp với tình hình mới. Theo Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương XIII Điều lệ của Đảng khóa X (Ban hành theo Quyết định số 25-QĐ/TW, ngày 24.11.2006 của Bộ Chính trị), “Giám sát của Đảng là việc các cấp ủy, tổ chức đảng theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên chịu sự giám sát trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương” [11; tr.119]. Trong nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XI, công tác kiểm tra giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng, Điều lệ Đảng khóa XI có những bổ sung, sửa đổi rất quan trọng làm căn cứ để bổ sung, sửa đổi Hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ Đảng khóa XI (Ban hành theo Quyết định số 46-QĐ/TW ngày 1.11.2011 của BCH Trung ương) nhằm khẳng định tính pháp lý cao nhất, đồng thời khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm và những biểu hiện lệch lạc trong việc thi hành kỷ luật và giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng còn tồn tại ở nhiều nhiệm kỳ trước. Công tác kiểm tra, giám sát tập trung hơn vào những lĩnh vực, địa bàn dễ phát sinh tiêu cực, tập trung những nơi mà có tồn tại những vấn đề nổi cộm, gây bức xúc trong dư luận xã hội và kịp thời kiểm tra khi có dấu hiệu của vi phạm.

Về thi hành kỷ luật, Đảng đã bổ sung nhiều nội dung mới nhằm thực hiện tốt hơn nữa phương châm công khai, minh bạch, công minh, chính xác, kịp thời trong thi hành kỷ luật đảng, như: việc đảng viên khi chuyển sinh hoạt đảng sang tổ chức đảng khác mới bị phát hiện hoặc bị tố cáo có vi phạm kỷ luật ở nơi sinh hoạt trước đây mà chưa được xem xét, xử lý; bổ sung thêm việc căn cứ các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ để xem xét, quyết định hình thức kỷ luật và xác định rõ trách nhiệm của tổ chức đảng đã quyết định xử lý kỷ luật để đảm bảo công minh và dân chủ trong thi hành kỷ luật; bổ sung quy định trách nhiệm của tổ chức đảng đã quyết định kỷ luật oan, sai cho cán bộ, đảng viên; về thẩm quyền thi hành kỷ luật và thẩm quyền chuẩn y, thay đổi hoặc xóa bỏ hình thức kỷ luật do cấp dưới quyết định đối với tổ chức đảng, đảng viên; đặc biệt bổ sung quy định để cụ thể hóa thẩm quyền, trách nhiệm và cách thức xử lý kỷ luật của BCH Trung ương là cấp quyết định kỷ luật cuối cùng… Sự phối hợp giữa kiểm tra, giám sát của Đảng và thanh tra, kiểm toán Nhà nước, và điều tra, truy tố, xét xử được tổ chức ngày càng chặt chẽ, hiệu quả. Kết luận điều tra và xử lý vi phạm, kỷ luật trong Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên được kịp thời cập nhật trên các phương tiện thông tin đại chúng đã góp phần giáo dục cán bộ, đảng viên, răn đe với những đối tượng đang có ý đồ vi phạm, được đông đảo nhân dân đồng tình ủng hộ.

Tính trong nhiệm kỳ Đại hội XII, cấp ủy các cấp đã kiểm tra 264.091 tổ chức đảng và 1.124.146 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 15.920 tổ chức Đảng và 47.701 đảng viên (trong đó có 23.432 cấp ủy viên). Qua kiểm tra, cấp ủy các cấp thi hành kỷ luật 1.329 tổ chức đảng và 69.600 đảng viên bằng các hình thức khác nhau; ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 17.610 đảng viên [8; tr.288].

Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã chỉ đạo điều tra, truy tố, xét xử 126 vụ án (637 bị cáo) nghiêm trọng, phức tạp, được dư luận xã hội quan tâm; với 3 án tử hình, 13 án chung thân, 8 bị cáo bị phạt tù với mức án 30 năm, 20 bị cáo bị phạt tù từ 20 năm đến dưới 30 năm, 546 bị cáo bị phạt tù từ 12 tháng đến dưới 20 năm, cải tạo không giam giữ 16 bị cáo. Trong đó các vụ án điển hình như Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam; vụ án Phan Văn Anh Vũ; vụ án Nguyễn Văn Dương, Phan Sào Nam; vụ án tại Ngân hàng BIDV… [8; tr.210].

Hoạt động đấu tranh, phòng chống các quan điểm sai trái, thù địch: Đảng ta chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn… Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc” [5; tr.22]. Hiện nay, các thế lực thù địch không từ bất cứ một thủ đoạn nào, ra sức vu cáo và bôi nhọ Đảng, dùng các chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tín ngưỡng”, “tự do ngôn luận”. Nghiêm trọng ở chỗ, đã có những biểu hiện phủ nhận Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”; phản bác, phủ nhận nền dân chủ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự”; nói xấu các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước; đòi “phi chính trị hóa” quân đội và công an,… Hoặc, công tác chống tham nhũng đang được Đảng và Nhà nước ta thực hiện một cách kiên quyết, công khai, minh bạch, được nhân dân đồng tình và tin tưởng, nhưng các thế lực thù địch lại xuyên tạc bóp méo, cho đó là cuộc đấu tranh thanh trừ nội bộ giữa các phe phái và các nhóm lợi ích” [15].

Có thể khẳng định, những kết quả thực hiện công tác xây dựng Đảng về đạo đức đã đạt được dù mới bước đầu nhưng có vai trò hết sức quan trọng, tạo sự phấn khởi, tin tưởng của đông đảo người dân về sự lãnh đạo của Đảng, về sự nghiêm minh của kỷ luật đảng, của pháp luật; có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy hơn nữa sự tham gia có hiệu quả của Nhân dân vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về đạo đức.

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong thời gian qua, công tác xây dựng Đảng về đạo đức còn một số bất cập, hạn chế cần khắc phục như:

Một là, không ít cấp ủy chưa thật sự coi trọng vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng về đạo đức; chưa dành thời gian, công sức để tập trung chỉ đạo xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng tương xứng ngang tầm, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Khả năng nhận thức, vận dụng, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, nguyên tắc, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước của nhiều tổ chức cơ sở đảng còn yếu, chưa đủ sức dự báo, phát hiện, giải quyết những vấn đề phức tạp xảy ra ở cơ sở.

Trong văn kiện Đại hội lần thứ XIII, Đảng cũng thẳng thắn chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm về công tác xây dựng Đảng, trong đó có lĩnh vực xây dựng Đảng về đạo đức. Đại hội chỉ rõ: “một số suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; vẫn còn tình trạng nói không đi đôi với làm, không tuân thủ nguyên tắc của Đảng; quan liệu, tham nhũng, lãng phí, cá nhân chủ nghĩa, cơ hội, thực dụng, bè phái, gây mất đoàn kết nội bộ; chưa nêu cao ý thức trách nhiệm trước tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương và nhân dân” [8; tr.178]. Kết luận số 21-KL/TW Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương Đảng khóa XIII thẳng thắn khẳng định: “một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật”[1].

Hai là, công tác tuyên truyền, bồi dưỡng giáo dục đạo đức cách mạng còn yếu kém, bất cập chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn. Một bộ phận tổ chức cơ sở đảng chưa nhận thức đúng và đầy đủ tầm quan trọng của nhiệm vụ giáo dục, tuyên truyền, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho đảng viên, nhất là trong bối cảnh đất nước có nhiều thay đổi, quốc tế có nhiều biến động, diễn biến phức tạp, cả thời cơ và những thách thức lớn đan xen vào nhau. Trong Kết luận số 21-KL/TW Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương Đảng khóa XIII, Đảng ta nhấn mạnh: “chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch…”[1].

Ba là, công tác đánh giá cán bộ trong Đảng vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể, không ít trường hợp còn cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến. Quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp, các ngành, các địa phương; việc phát hiện, đào tạo, sử dụng, trọng dụng, tôn vinh người tài, bổ nhiệm sử dụng còn nhiều bất cập dẫn đến lãng phí nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước.

Bốn là, một số cấp ủy, tổ chức đảng ở cơ sở chưa thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; chưa thực hiện có nền nếp chế độ sinh hoạt đảng, nội dung, hình thức, phương pháp sinh hoạt, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt chi bộ chậm đổi mới, chưa bảo đảm tính lãnh đạo, tính chiến đấu và tính giáo dục. Chưa coi trọng đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách, lề lối làm việc, cải cách hành chính trong công tác đảng ở cơ sở; “tư duy nhiệm kỳ” và “bệnh thành tích” còn nặng và khá phổ biến. Công tác quản lý, đôn đốc, kiểm tra, giám sát, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên ở không ít tổ chức cơ sở đảng bị buông lỏng hoặc chưa được coi trọng đúng mức. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII nhấn mạnh: “Tự phê bình và phê bình ở không ít nơi còn hình thức; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi; một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ được giao. Giám sát của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên ở một số nơi chưa thường xuyên, hiệu quả thấp” [8; tr.179].

Ngoài ra, trong thực tiễn còn tồn tại một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa thực sự quan tâm đến công tác dân vận, chưa quan tâm đến đời sống của nhân dân. Nhiều kiến nghị chính đáng của nhân dân chưa được cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền quan tâm giải quyết kịp thời. Phương thức lãnh đạo, phong cách lề lối làm việc của một số cán bộ, đảng viên thiếu dân chủ, quan liêu, xa dân, thậm chí suy thoái đạo đức đi ngược lại lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Tình trạng cán bộ, đảng viên hách dịch, gây phiền hà cho dân, làm việc không minh bạch thậm chí đề bạt con cháu, người nhà vào các chức vụ quan trọng mà không tương xứng với năng lực, trình độ vẫn còn diễn ra. Thực tiễn này làm tổn hại nghiêm trọng đến uy tín của Đảng, giảm sút niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và chế độ.

Những hạn chế, thiếu sót trong xây dựng Đảng về đạo đức trên xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản như: mặt trái của nền kinh tế thị đã trường đã gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng không nhỏ đến nhân cách, lối sống, đặc biệt là sự nhen nhóm, hình thành chủ nghĩa cá nhân trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức cho cán bộ, đảng viên ở nhiều nơi còn mang tính hình thức; các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, bóp méo tình hình, bôi nhọ, khuếch đại những sai trái của một bộ phận cán bộ, đảng viên thái hóa, biến chất;… Ngoài ra, nguyên nhân quan trọng là một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu chưa nhận diện đầy đủ mức độ suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tại địa phương, cơ quan đơn vị mình, chưa có quyết tâm và thi hành biện pháp chỉ đạo đủ mạnh mẽ; xuất phát từ bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước Dân.
--------------------------------------------------
Kỳ 2: Một số giải pháp

Theo Tạp chí Xây dựng Đảng

Nguồn Hải Dương: http://baohaiduong.vn/xay-dung-dang---chinh-quyen/xay-dung-va-chinh-don-dang-ve-dao-duc-hien-nay-ky-1-thuc-trang-va-mot-so-van-de-dat-ra-195168