Xuất khẩu lao động: Giải pháp đồng bộ để thay đổi cả chất lượng, số lượng
Công tác đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài sẽ thay đổi đáng kể về chất lượng, số lượng nếu thực hiện đồng bộ các giải pháp như: Sửa đổi quy định, quản lý từ 'tiền kiểm' sang 'hậu kiểm'...

Lao động làm thủ tục đi làm việc ở nước ngoài. (Ảnh: PV/Vietnam+)
Năm 2025 được đánh giá là năm bản lề quan trọng của lĩnh vực xuất khẩu lao động Việt Nam với hơn 120.000 lao động được đưa ra nước ngoài trong 10 tháng đầu năm, đạt 93,2% kế hoạch. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan, các thị trường lao động truyền thống như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) đang đối mặt với nhiều khó khăn mới, đòi hỏi những giải pháp đồng bộ để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động.
Kết quả tích cực, song thách thức không ít
Theo Quyền Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Nội vụ) Vũ Trường Giang, năm 2025 là năm đầu tiên nhiều nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị được triển khai, tạo động lực mạnh mẽ cho lĩnh vực xuất khẩu lao động. Sau 45 năm thực hiện, hàng triệu người lao động Việt Nam đã được đưa đi làm việc ở nước ngoài, đóng góp nguồn ngoại tệ đáng kể cho nền kinh tế.
Kết quả 10 tháng năm 2025 cho thấy, cả nước đã đưa hơn 120.000 lao động ra nước ngoài, trong đó Nhật Bản tiếp tục dẫn đầu với hơn 55.000 người, Đài Loan (Trung Quốc) đứng thứ hai với hơn 47.000 lao động, tiếp theo là Hàn Quốc với gần 10.000 lao động. Các thị trường châu Âu như Đức, Romania, Hungary, Nga cũng duy trì ở mức ổn định.
Ước tính đến cuối năm 2025, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài giai đoạn 2021-2025 sẽ đạt khoảng 636.000 người, tương đương 127,3% so với kế hoạch ban đầu (500.000 người). Hiện có khoảng 860.000 lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài, mỗi năm gửi về nước khoảng 6,5-7 tỷ USD, góp phần quan trọng vào nguồn ngoại tệ quốc gia.
Tuy nhiên, lĩnh vực này cũng đối mặt với nhiều thách thức. Cạnh tranh lao động quốc tế ngày càng gay gắt khi các quốc gia như Philippines, Indonesia, Ấn Độ, Bangladesh đẩy mạnh chính sách xuất khẩu lao động, tạo áp lực lớn đối với lao động Việt Nam.
Tại thị trường Nhật Bản, đồng yen sụt giá mạnh khiến thu nhập thực tế của người lao động giảm đáng kể. Mặc dù Nhật Bản đã bổ sung nhiều chính sách mới và mở thêm ngành nghề tiếp nhận, nhưng quy định tuyển chọn phức tạp khiến lao động trong nước khó xác định được nhóm ngành phù hợp.
Tại Hàn Quốc, tình trạng lao động bỏ trốn, đặc biệt trong nhóm thuyền viên, đang gia tăng do cạnh tranh không lành mạnh từ các doanh nghiệp. Tỷ lệ lao động xuất cảnh trong ngành đóng tàu cũng thấp hơn số đăng ký hợp đồng do tình trạng "chào hàng" nhiều doanh nghiệp cùng một đơn hàng.
Thị trường Đài Loan (Trung Quốc) tồn tại tình trạng môi giới tràn lan, can thiệp sâu vào khâu tuyển chọn và chi phí, khiến chi phí đi làm việc tăng cao. Trong hơn 500 doanh nghiệp đang hoạt động, vẫn còn bộ phận doanh nghiệp năng lực yếu, cạnh tranh bằng cách chi hoa hồng cho môi giới rồi thu phí cao từ người lao động.

Hiện có khoảng 860.000 lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài, mỗi năm gửi về nước khoảng 6,5-7 tỷ USD. (Ảnh: PV/Vietnam+)
Theo ông Vũ Trường Giang, đáng chú ý là kỹ năng ngoại ngữ và tay nghề của một bộ phận lao động Việt Nam chưa đáp ứng yêu cầu của các thị trường phát triển, buộc doanh nghiệp phải đầu tư nhiều hơn cho đào tạo. Nhiều doanh nghiệp cũng gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin pháp luật di trú tại các thị trường mới ở châu Âu và châu Mỹ.
Giải pháp toàn diện cho thời gian tới
Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng đánh giá sự chững lại của lĩnh vực xuất khẩu lao động do nhiều nguyên nhân như kinh tế khó khăn, chính sách nhập cư siết chặt ở một số nước, cơ chế quản lý còn bất cập và vi phạm trong hoạt động đưa lao động đi nước ngoài.
Để khắc phục tình trạng này, Bộ Nội vụ sẽ triển khai nhiều giải pháp đồng bộ. Đầu tiên là cắt bỏ các thủ tục hành chính rườm rà, công khai hóa và minh bạch hóa các thủ tục, thỏa thuận, chi phí để người dân dễ dàng tiếp cận thông tin. Bộ Nội vụ cũng sẽ phối hợp với Bộ Tư pháp đề xuất sửa đổi Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và xây dựng Chiến lược quốc gia về lao động ngoài nước.
Giải pháp thứ hai là đẩy mạnh tuyên truyền về các thỏa thuận quốc tế, thủ tục, cơ chế để người dân hiểu rõ sự khác biệt giữa lao động hợp đồng thương mại và phi lợi nhuận, tránh bị các cá nhân, tổ chức môi giới lợi dụng.
Bên cạnh đó, Thứ trưởng Bộ Nội vụ nhấn mạnh cần tăng cường giáo dục, đào tạo, nâng cao kỹ năng nghề và ứng xử để người lao động vừa phát huy được tay nghề, vừa tuân thủ pháp luật nước sở tại, không trở thành gánh nặng cho các nước tiếp nhận. Bộ Nội vụ cũng sẽ phối hợp với Bộ Ngoại giao, các cơ quan lãnh sự để bảo hộ công dân và xử lý kịp thời khi có vi phạm hoặc rủi ro xảy ra.
Trong thời gian tới, Bộ Nội vụ cũng sẽ tăng cường chuyển đổi số thông qua việc xây dựng các ứng dụng quốc gia như DOLAB-JICA hoặc sàn giao dịch việc làm để người lao động có nhiều sự lựa chọn hơn.
Ông Vũ Chiến Thắng nhấn mạnh nếu triển khai đồng bộ các giải pháp, lĩnh vực xuất khẩu lao động sẽ có sự thay đổi đáng kể về chất lượng và số lượng. Trách nhiệm của doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở việc đưa lao động xuất cảnh mà phải là chuỗi tuần hoàn từ ký thỏa thuận, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bảo hộ người lao động cho đến khi họ hoàn thành quá trình làm việc và trở về nước./.












