Xuất khẩu tôm: Cần xây dựng thương hiệu gắn với chất lượng
Quý I/2025, xuất khẩu tôm vượt mốc 900 triệu USD. Trong bối cảnh năng suất đạt ngưỡng, việc xây dựng thương hiệu gắn với chất lượng sẽ tăng kim ngạch xuất khẩu.
Trung Quốc - điểm sáng lớn nhất của xuất khẩu tôm Việt
Theo báo cáo của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, quý I/2025, xuất khẩu tôm đạt 939 triệu USD, tăng trên 37% so với cùng kỳ năm 2024. Mức tăng trưởng ấn tượng này đến từ sự phục hồi nhu cầu tại nhiều thị trường lớn, đặc biệt là Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản và khối CPTPP.

Quý I/2025, xuất khẩu tôm tăng trên 37%. Ảnh minh họa
Trong đó, Trung Quốc và Hồng Kông (Trung Quốc) là điểm sáng lớn nhất trong "bức tranh" xuất khẩu của ngành tôm Việt Nam với tổng kim ngạch đạt 288 triệu USD, tăng tới 125%. Đáng chú ý, xuất khẩu tôm hùm sang thị trường này tiếp tục tăng mạnh. Giá xuất khẩu tôm sú Việt Nam sang Trung Quốc trong tháng 3 duy trì mức 9,6 USD/kg, tăng nhẹ so với tháng 1. Tuy nhiên, giá tôm chân trắng vẫn ở mức thấp (6,6 USD/kg), cho thấy sức ép cạnh tranh từ Ecuador và Ấn Độ vẫn hiện hữu.
Cùng với thị trường Trung Quốc, xuất khẩu tôm Việt Nam sang Mỹ đạt 134 triệu USD trong quý I/2025, tăng 11% so với cùng kỳ năm ngoái.
Xuất khẩu tôm sang EU trong quý đầu năm nay đạt 107 triệu USD, ghi nhận mức tăng trưởng khả quan 33%. Xuất khẩu sang Nhật Bản đạt 124 triệu USD, tăng 20% và xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc đạt 77 triệu USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm ngoái. Với khối thị trường CPTPP, giá trị xuất khẩu đạt 269 triệu USD, tăng 40% nhưng thị trường vẫn phụ thuộc lớn vào Nhật Bản và Canada.
Nâng cao năng lực, cần "xanh hóa" ngành tôm
Theo báo cáo của Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), kim ngạch xuất khẩu thủy sản quý I/2025 đạt 2,29 tỷ USD, tăng 18,1% so với cùng kỳ năm 2024.
Ông Trần Đình Luân - Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư - nhận định, tôm và cá tra hiện vẫn đang là sản phẩm xuất khẩu chủ lực của ngành. Đáng chú ý, quý I/2025, xuất khẩu tôm ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng, trên 37,8% so với cùng kỳ năm trước. Dù vậy, ngành tôm Việt đang đối diện với những khó khăn không nhỏ.
Để vượt qua thách thức, trước rủi ro về những rào cản thương mại, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cần tập trung đầu tư chế biến sâu và xây dựng thương hiệu “tôm Việt” gắn với chất lượng, bền vững và minh bạch.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đang đẩy mạnh khai thác các hiệp định thương mại tự do (FTA) như: EVFTA, CPTPP, RCEP… Đồng thời, mở rộng các thị trường tiềm năng có nhu cầu tiêu thụ tôm lớn như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada, châu Âu và cả thị trường Halal đầy tiềm năng.
Cùng với việc đa dạng hóa thị trường, việc nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành tôm Việt Nam là một đòi hỏi bức thiết. Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, TS. Hồ Quốc Lực - nguyên Chủ tịch VASEP, Chủ tịch HĐQT FIMEX Việt Nam - thông tin, sản phẩm thủy sản muốn thâm nhập các kệ hàng cao cấp, cần thuyết phục được đối tác những gì mình đã và đang thực thi trong tiến trình tạo ra sản phẩm phù hợp các tiêu chí phía đối tác đòi hỏi.
Ngành tôm Ecuador ngoài lợi thế giá rẻ, còn có lợi thế khác là khoảng 30% diện tích nuôi tôm của họ đạt chứng nhận ASC, thuận lợi tiêu thụ vào EU và Hoa Kỳ. Tỷ lệ này trong ngành nuôi tôm của Việt Nam là con số cực kỳ khiêm tốn. Nguyên nhân do đại đa số diện tích nuôi nhỏ lẻ, khó làm, nếu làm thì chi phí cao quá. Đây cũng nên được coi là một "nút thắt cổ chai" cần xử lý để ngành tôm thêm cơ hội vươn tầm.
Thị trường đang đối diện với những biến động rất lớn. Các chuyên gia cho rằng, ngành tôm Việt Nam đang phải đối diện với các khó khăn và cần có sách lược, chiến lược ứng xử linh hoạt, kịp thời. Qua đó, sẽ góp phần giảm thiểu cái khó mới cũng như nâng tầm ngành hàng. Trong đó, "xanh hóa" ngành tôm là bước đi cần thiết.
Thông tin về việc này, bà Lê Hằng - Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam - cho hay, theo Quyết định 3444/QĐ-BNN-KH ngày 12/9/2023 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đặt ra các nhiệm vụ cụ thể cho nuôi trồng thủy sản.
Ngành tôm được định hướng áp dụng các đối tượng nuôi mới có hiệu quả cao, khả năng chống chịu tốt, thích ứng với điều kiện khí hậu thay đổi. Đồng thời, kiểm soát dịch bệnh, giảm sử dụng kháng sinh và đảm bảo an toàn thực phẩm là những ưu tiên hàng đầu. Quyết định 4441/QĐ-BNN-KHCN ngày 13/12/2024 tiếp tục thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, tận dụng phụ phẩm nông nghiệp và phát triển các chế phẩm sinh học xử lý môi trường nuôi, mở ra hướng đi bền vững cho ngành.
Theo đó, ngành tôm đã đẩy mạnh công nghệ nuôi tuần hoàn và tái chế phụ phẩm; giảm ô nhiễm và tối ưu hóa dinh dưỡng. Sử dụng năng lượng hiệu quả là một trụ cột khác của phát triển xanh. Các mô hình nuôi kết hợp như tôm - rừng và tôm - lúa cũng được khuyến khích. Những mô hình này không chỉ thân thiện với môi trường mà còn góp phần đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị kinh tế.
Truy xuất nguồn gốc là yêu cầu không thể thiếu để đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng như ASC, BRC và GlobalGAP không chỉ nâng cao uy tín sản phẩm tôm Việt Nam mà còn giúp người tiêu dùng tin tưởng vào nguồn gốc xanh, sạch của sản phẩm.
Cũng theo bà Lê Hằng, phát triển xanh ngành tôm Việt Nam là hướng đi toàn diện, kết hợp công nghệ tiên tiến, quản lý chất thải hiệu quả và thực hành nuôi bền vững. Những nỗ lực này không chỉ bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng tôm mà còn giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Hiện, ngành tôm Việt Nam có sản lượng 1,3 triệu tấn mỗi năm, xuất khẩu mang về 4,3 tỷ USD.