Xúc động thầy cô 'gieo chữ trên đá' nơi biên cương Tổ quốc

80 thầy, cô giáo tiêu biểu vừa được vinh danh trong Chương trình 'Chia sẻ cùng thầy cô' năm 2025 cũng là tám mươi câu chuyện về sự hy sinh, tận tụy và lòng yêu nghề cháy bỏng. Họ đã dành trọn thanh xuân, lặng lẽ bám trường, bám bản, 'gieo từng con chữ' giữa những vùng đất còn nhiều gian khó của Tổ quốc.

Nếu được chọn lại, sẽ vẫn chọn nghề giáo miền biên viễn

Mười năm trước, ở tuổi 23, cô giáo trẻ Nguyễn Thị Thu Hà rời Hà Nội, rời gia đình nhỏ của mình để nhận nhiệm vụ ở Trường Mầm non Bản Lang, xã Khổng Lào, huyện Phong Thổ, Lai Châu, một xã biên giới đặc biệt khó khăn. Cầm tấm bằng Trung học Sư phạm Mầm non và trái tim ấp ủ khát vọng cống hiến, cô Hà không ngờ những năm tháng phía trước là chuỗi ngày thử thách ngỡ như không thể vượt qua.

Ký ức về ngày đầu lên trường vẫn là nỗi ám ảnh đối với cô: những cung đường quanh co, dốc dựng đứng, đá lở rình rập. Ngồi sau xe đồng nghiệp, cô chỉ biết bám chặt, mắt nhắm tịt vì sợ. Đó chỉ mới là khởi đầu của vô vàn khó khăn: nhà ở thuê tạm bợ, thời tiết khắc nghiệt, cơ sở vật chất thiếu thốn và trên hết là nỗi nhớ con đến quặn thắt khi con gái đầu lòng mới 18 tháng tuổi phải gửi lại cho ông bà chăm sóc.

Năm thứ hai công tác, khi gia đình vừa được đoàn tụ trong căn phòng trọ nhỏ, cô Hà bất ngờ được phân công lên điểm trường Nậm Lùng, xa và khó nhất xã. Cũng đúng lúc ấy, cô biết mình mang thai. Mỗi buổi đến lớp, cô vừa cõng con gái gần 3 tuổi, vừa ôm bụng bầu vượt những đoạn đường cheo leo hơn 10km. Những hôm trời mưa, đường lầy trơn, có đoạn phải dắt bộ từng mét. Chồng công tác vùng sâu, mỗi tháng chỉ được nghỉ vài ngày, nên phần lớn mọi việc cô đều phải gánh vác. Áp lực và vất vả khiến thai kỳ của cô gặp biến chứng, nhiều lần phải uống thuốc dưỡng thai ngay trên điểm trường.

Không có nước sạch, không có nhà vệ sinh, mẹ con cô phải ở ngay trong lớp học lợp tôn nóng hầm hập vào mùa hè, lạnh cắt da vào mùa đông. Hàng ngày, bụng bầu vượt mặt, cô dắt con đi nhặt củi nấu cơm. Thế nhưng, những khó khăn ấy không làm lụi tắt ngọn lửa nghề trong trái tim cô. Tiếng cười đùa trong trẻo của bọn trẻ Nậm Lùng chính là nguồn động lực giúp cô ở lại.

Phụ huynh nghèo, không thể đóng góp, cô cùng đồng nghiệp tự bỏ tiền mua bút màu, giấy vẽ. Tre nứa, củ khoai, bắp ngô, sỏi đá… trở thành giáo cụ dạy học. Từ những vật dụng đơn sơ ấy, cô đã biến lớp học nhỏ thành một thế giới màu sắc. Ở đó, con chữ được gieo bằng tất cả tình yêu trẻ thơ.

Nép mình giữa mây núi Cán Tỷ, Trường Mầm non Bát Đại Sơn chỉ có vài phòng học nhỏ, tường đất trộn đá, bếp ăn đơn sơ, đồ dùng dạy học phần lớn đều do giáo viên tự tay làm. Ở đây, 100% học sinh là người dân tộc thiểu số, nhiều em chưa thạo tiếng Việt, đường đến trường quanh năm bùn đất, mùa đông lạnh buốt, mùa mưa sạt lở triền miên. Ấy vậy mà hơn 10 năm qua, cô Nguyễn Thị Mến vẫn kiên định với lựa chọn “gieo chữ nơi đầu nguồn Tổ quốc”.

“Không có điện thì dùng ánh sáng của tình yêu nghề”, cô Mến nói giản dị. Từ rơm khô, lõi ngô, sỏi đá…, các cô tự làm đồ chơi, mô hình học tập giúp trẻ tiếp cận bài học một cách gần gũi. Cùng đó, cô Mến chủ động xây dựng “Môi trường học tập giàu ngôn ngữ” một mô hình sáng tạo và hiệu quả. Trong lớp, mọi đồ vật đều được gắn nhãn bằng tiếng Việt kèm hình minh họa. Cô kể chuyện bằng tiếng Việt xen tiếng mẹ đẻ, nhờ phụ huynh cùng làm trợ giảng để trẻ vượt qua nỗi rụt rè ban đầu. Dần dần, phụ huynh hiểu hơn về tầm quan trọng của tiếng Việt, hỗ trợ con tại nhà. Bản làng vốn im vắng tiếng học bài, nay đã vang lên những câu chữ đầu đời. Không chỉ sáng tạo trong phương pháp, cô tự thiết kế bài giảng, tìm tư liệu hình ảnh, sử dụng cả trí tuệ nhân tạo để hỗ trợ bài học.

Nỗ lực không ngừng ấy giúp cô nhiều năm liền đạt danh hiệu Giáo viên dạy giỏi, được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen năm 2025. Nhưng với cô, phần thưởng lớn nhất vẫn là nụ cười của học trò: “Đó là những bông hoa đầu đời của nhân cách”.

“Nếu được chọn lại, tôi vẫn chọn nghề giáo. Và nếu được chọn nơi để cống hiến, tôi vẫn chọn vùng biên cương này”, cô Mến nói, ánh mắt lấp lánh tự hào.

Giọt nước mắt trên sân khấu và lời gọi đầy ám ảnh

Không chỉ những gian nan nơi biên giới Tây Bắc, chương trình “Chia sẻ cùng thầy cô” năm nay còn khắc họa những câu chuyện khiến cả hội trường lặng đi, như câu chuyện của cô giáo Đinh Thị Lệ Thu, Trường Tiểu học Đường Hoa, tỉnh Quảng Ninh.

Khi đang chia sẻ trên sân khấu, cô Thu bất ngờ được xem đoạn video lời nhắn gửi của học trò cũ, Chíu Gì Linh: “Cô ơi, ngày xưa cô đã giúp em quay lại trường. Giờ em đã có gia đình và một con gái nhỏ. Nhân dịp 20/11, em chúc cô mạnh khỏe, hạnh phúc”. Giọng nói run run ấy khiến cô Thu bật khóc ngay trên sân khấu.

Ký ức ùa về. Ngày ấy, Linh, học sinh lớp 5 do cô Thu chủ nhiệm, đột ngột nghỉ học. Khi cô tìm đến, trước mắt cô là ba chị em nhỏ ôm nhau khóc nức nở: “Cô ơi, mẹ em bỏ đi rồi… Em không có ai hết”. Mẹ các em vì quá nghèo đã phải vượt biên sang Trung Quốc làm thuê, không thể mang con theo.

Cô Thu kể: “Hôm đó, tôi chỉ biết ôm con bé vào lòng và nói: “Không sao, còn có cô”. Rồi tôi xin chồng cho ở lại qua đêm để trấn an các con”. Từ nhà cô đến bản của Linh hơn 30km, trong khi con cô ở nhà mới hơn hai tuổi chưa từng xa mẹ. Nhưng tình thương dành cho học trò đã khiến cô vượt qua mọi rào cản.

Nhờ sự kiên trì vận động của cô, Linh quay lại trường, tiếp tục học tập. Nhiều năm sau, gặp lại “đứa con” ấy qua màn hình, nhìn em trưởng thành, hạnh phúc, cô Thu không giấu nổi niềm xúc động. Đó là phần thưởng vô giá cho những hy sinh thầm lặng của người giáo viên vùng khó.

Và đó là cô Dương Kim Ngân, Hồng Thái, Tuyên Quang là một trong những gương mặt tiêu biểu của ngành Giáo dục 2025. Sinh ra trong gia đình nghèo ở Cao Bằng, nơi cha cô từng làm giáo viên vùng xa rồi phải rời bục giảng để mưu sinh, cô Ngân lớn lên với ước mơ nối tiếp điều dang dở của cha. Năm 2014, tốt nghiệp Trường ĐH Sư phạm Thái Nguyên, cô về công tác tại Tuyên Quang và gắn bó đến nay.

Ở Hồng Thái, môn Toán vốn là nỗi sợ của nhiều học sinh dân tộc thiểu số. Không ít em rụt rè, tự ti, có em muốn bỏ học vì cho rằng mình “không thể học được”. Bởi thế, cô Ngân mở lớp phụ đạo miễn phí cho học sinh từ lớp 6 đến lớp 9, đều đặn mỗi chiều hoặc tối. “Điều quan trọng nhất là giúp các em tin vào chính mình”, cô Ngân bộc bạch.

Dạy học sinh yếu, cô chọn cách bắt đầu từ những điều nhỏ nhất: phép tính dễ, bài toán gắn với thực tế. Các ví dụ từ ruộng nương, chợ phiên khiến Toán học trở nên gần gũi hơn. Chỉ cần học sinh làm đúng một phép tính, cô khen ngợi nồng nhiệt để gieo sự tự tin. Với lớp 9, cô tổ chức thi thử định kỳ, phân tích từng lỗi sai để các em tiến bộ từng bước.

Thành quả đến từ sự bền bỉ ấy là 3 năm liên tiếp (2021 - 2024), điểm thi môn Toán vào lớp 10 của trường đều cao hơn trung bình toàn tỉnh. Nhiều học sinh đỗ vào các trường THPT uy tín, có em đạt giải KHKT cấp tỉnh.

Cùng đó là một thực tế, ở vùng cao, dạy chữ đã khó, giữ học sinh không bỏ học đi lấy vợ, lấy chồng còn khó hơn nhiều. Cô Ngân thành lập Câu lạc bộ Phòng, chống tảo hôn. Mỗi tháng, CLB tự dựng tiểu phẩm, kể chuyện thật, thảo luận tình huống… để lan tỏa thông điệp.

Có những trường hợp, cô phải đến tận nhà học sinh 5 - 7 lần, thuyết phục từ cả cha mẹ đến họ hàng. Như trường hợp của D cô bé người Mông mới 14 tuổi. Khi D xin nghỉ để “lấy chồng giảm gánh nặng cho bố mẹ”, cô Ngân lập tức vượt dốc tìm đến nhà, rồi cùng ban giám hiệu phát động quyên góp để gia đình tin rằng “ở lại trường, em không đơn độc”. Đến nay, D đã học xong THPT, một kết thúc đẹp cho hành trình đầy nước mắt và nghị lực. Những năm gần đây, trường không còn học sinh bỏ học vì tảo hôn...

Giữa những bản làng cheo leo mây phủ, giá rét mùa đông hay lở đá mùa mưa, các thầy cô vẫn chọn ở lại. Họ lặng lẽ, nhưng không bao giờ đơn độc, gian khó, nhưng chưa bao giờ dừng bước. Và chính từ những lớp học nhỏ trên núi cao, những nụ cười trẻ thơ, những đêm thức soạn bài, những giọt nước mắt xúc động khi thấy học trò trưởng thành… đã làm nên ý nghĩa sâu xa nhất của nghề giáo - kiên cường và bền bỉ để mỗi đứa trẻ lớn lên, trưởng thành, chạm tay tới khát vọng.

Uyên Na

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/xuc-dong-thay-co-gieo-chu-tren-da-noi-bien-cuong-to-quoc.html