10 vấn đề lớn cần tiếp thu, chỉnh lý trong dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi)

Ngày 26/3, tại Nhà Quốc hội, tiếp tục chương trình Hội nghị Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ 5, nhiệm kỳ khóa XV, các đại biểu đã thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi).

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định cho biết, tại Kỳ họp thứ 6 (tháng 11/2023), Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi). Ngay sau kỳ họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Ủy ban Tư pháp phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan nghiên cứu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, tổ chức Hội thảo, lấy ý kiến một số cơ quan, tổ chức liên quan để có thêm thông tin và cơ sở thực tiễn phục vụ công tác giải trình, tiếp thu, chỉnh lý hoàn thiện dự thảo Luật.

Hiện nay, Thường trực Ủy ban Tư pháp xin ý kiến của các đại biểu tại Hội nghị Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách về 10 vấn đề lớn, cụ thể:

Thứ nhất, về quy định Tòa án thực hiện quyền tư pháp, Thường trực Ủy ban Tư pháp cho rằng, Nghị quyết 27 yêu cầu: “Xác định thẩm quyền của Tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp”. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Tuy nhiên, từ đó đến nay, quy định này chưa được cụ thể hóa nên còn có cách hiểu khác nhau. Thực tiễn công tác xét xử của các Tòa án cũng đòi hỏi cần làm rõ nội dung này. Do đó, Thường trực Ủy ban Tư pháp tán thành cần quy định nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp trong dự thảo Luật, bảo đảm có cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn. Dự thảo Luật quy định cụ thể nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp, không quy định “nội hàm quyền tư pháp”.

 Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định điều hành nội dung.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định điều hành nội dung.

Thứ hai, việc thu thập tài liệu, chứng cứ trong giải quyết vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự và các vụ việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án (Điều 15), Thường trực Ủy ban Tư pháp cho rằng, Nghị quyết 27 yêu cầu: “Nghiên cứu, làm rõ... những trường hợp Tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử”.

Luật hiện hành không quy định phạm vi thu thập chứng cứ của Tòa án. Luật tố tụng quy định các hoạt động/biện pháp thu thập chứng cứ, trong đó luật tố tụng dân sự, hành chính có quy định: nếu đương sự không thu thập được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Từ đó nhiều đương sự không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, dẫn tới nhiều Tòa án quá tải công việc. Vì vậy, cần rà soát để quy định lại cho chặt chẽ việc Tòa án thu thập chứng cứ ngay trong dự thảo Luật…

Thứ ba, về đổi mới Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện theo thẩm quyền xét xử, Thường trực Ủy ban Tư pháp nhận thấy: Việc đổi mới Tòa án nhân dân cấp tỉnh thành Tòa án nhân dân phúc thẩm; Tòa án nhân dân cấp huyện thành Tòa án nhân dân sơ thẩm nhưng nhiệm vụ, quyền hạn của các Tòa án này không thay đổi. Các Tòa án vẫn gắn với đơn vị hành chính cấp huyện, cấp tỉnh. Tòa án nhân dân phúc thẩm vẫn xét xử sơ thẩm một số vụ án. Quy định như dự thảo Luật chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết 27; không thống nhất với các cơ quan tư pháp khác ở địa phương. Mặt khác, phải sửa đổi nhiều đạo luật có liên quan, phát sinh chi phí tuân thủ... Vì vậy, Thường trực Ủy ban Tư pháp đề nghị giữ nguyên quy định của Luật hiện hành về Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện.

Thứ tư, về Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt (điểm đ khoản 1 Điều 4, Điều 62, Điều 63), Thường trực Ủy ban Tư pháp nhận thấy: Việc thành lập TAND sơ thẩm chuyên biệt Hành chính, Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt Sở hữu trí tuệ và Tòa án nhân dân chuyên biệt Phá sản (sau đây gọi chung là các Tòa án chuyên biệt) là cần thiết, trong điều kiện số lượng các vụ, việc này ngày càng gia tăng, đòi hỏi đội ngũ cán bộ chuyên sâu đáp ứng yêu cầu thực tiễn và hội nhập quốc tế về tư pháp. Do đó, Thường trực Ủy ban Tư pháp đề nghị quy định ngay trong dự thảo Luật các Tòa án chuyên biệt cụ thể.

Thứ năm, về ngạch Thẩm phán: Thường trực Ủy ban Tư pháp tán thành với đề xuất của Tòa án nhân dân Tối cao, quy định 2 ngạch Thẩm phán gồm Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao và Thẩm phán. Quy định này cơ bản phù hợp với đặc thù công tác xét xử; khắc phục nhiều vướng mắc, bất cập hiện nay; nâng cao niềm tin của người dân đối với Thẩm phán; khuyến khích Thẩm phán phấn đấu, yên tâm công tác.

Về bậc Thẩm phán: Thường trực Ủy ban Tư pháp tán thành đề xuất giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định bậc Thẩm phán, tiêu chuẩn, điều kiện từng bậc. Tuy nhiên, không nên quy định “xét nâng bậc Thẩm phán…” trong dự thảo Luật. Việc thi nâng bậc hoặc xét nâng bậc Thẩm phán sẽ do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định sau khi Luật này được Quốc hội thông qua…

 Các đại biểu dự Hội nghị.

Các đại biểu dự Hội nghị.

Thứ sáu, về quy định tiền lương, phụ cấp của Thẩm phán, Thẩm tra viên Tòa án, Thư ký Tòa án (Điều 142), Luật hiện hành và dự thảo Luật đều quy định Nhà nước có chính sách ưu tiên về tiền lương, phụ cấp đối với Thẩm phán, Thẩm tra viên Tòa án, Thư ký Tòa án. Do đó, Thường trực Ủy ban Tư pháp cơ bản tán thành dự thảo Luật.

Thứ bảy, Thường trực Ủy ban Tư pháp cơ bản tán thành dự thảo Luật, việc thành lập các Vụ tại Tòa án nhân dân cấp cao trên cơ sở tổ chức lại các phòng Giám đốc, kiểm tra là phù hợp với tính chất, số lượng công việc mà các đơn vị này đang đảm nhiệm.

Thứ tám, về nhiệm kỳ Thẩm phán (Điều 100), Thường trực Ủy ban Tư pháp tán thành dự thảo Luật quy định: Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao làm việc đến khi nghỉ hưu; Thẩm phán được bổ nhiệm lần đầu có nhiệm kỳ 5 năm, Thẩm phán được bổ nhiệm lại có nhiệm kỳ đến khi nghỉ hưu.

Thứ chín, về mở rộng nguồn bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết 27 yêu cầu: “Mở rộng nguồn, đẩy mạnh thực hiện cơ chế thi tuyển để bổ nhiệm các chức danh tư pháp”. Thực tiễn công tác xét xử của Tòa án nhân dân Tối cao rất cần những chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu về pháp luật chuyên sâu để giải quyết các vụ việc ngày càng phức tạp trong tình hình mới. Do đó, Thường trực Ủy ban Tư pháp cơ bản tán thành dự thảo Luật.

Thứ mười, về tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp (khoản 3 Điều 141), đa số Thường trực Ủy ban Tư pháp thấy rằng: Tại phiên tòa, việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh là bảo đảm hoạt động thông tin theo quy định của pháp luật; nhưng đồng thời, phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân, góp phần bảo đảm tính tôn nghiêm tại phiên tòa, tạo điều kiện cho Hội đồng xét xử điều hành tốt phiên tòa.Thường trực Ủy ban Tư pháp và Tòa án nhân dân Tối cao thống nhất đề xuất chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng bổ sung quy định việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh… trong thời gian tuyên án, công bố quyết định; trường hợp cần thiết thì Tòa án ghi âm lời nói, ghi hình ảnh diễn biến phiên tòa, phiên họp…

Nguyễn Hường

Nguồn Công Luận: https://congluan.vn/10-van-de-lon-can-tiep-thu-chinh-ly-trong-du-thao-luat-to-chuc-toa-an-nhan-dan-sua-doi-post289280.html