2 loại ý kiến về thẩm quyền giám sát của tổ đại biểu hội đồng nhân dân
Ngày 24/10, Quốc hội nghe Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) sửa đổi.

Toàn cảnh phiên họp
Tại phiên họp, ông Dương Thanh Bình, Chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện và Giám sát trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND sửa đổi.
Theo ông Bình, đến nay, dự thảo Luật được bố cục gồm 5 chương, 45 điều, giảm 46 điều so với Luật Giám sát hiện hành (trong đó, đã bỏ 55 điều, kế thừa và sửa đổi 36 điều, bổ sung mới 9 điều). Căn cứ các nội dung của dự án Luật và số lượng điều luật được lược bỏ, sửa đổi, bổ sung mới, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã điều chỉnh phạm vi sửa đổi của Luật để sửa đổi toàn diện Luật Giám sát hiện hành và đổi tên là Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND sửa đổi.

Ông Dương Thanh Bình báo cáo trước Quốc hội (Ảnh: Quang Vinh)
Về khái niệm giám sát và chủ thể giám sát (Điều 2), theo ông Bình có một số ý kiến đề nghị nghiên cứu, sửa đổi khái niệm “giám sát” tại khoản 1 Điều 2 của Luật Giám sát hiện hành để xác định rõ hơn tính chất, mục đích, chủ thể chịu sự giám sát của Quốc hội, HĐND.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội (ĐBQH), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉnh lý khái niệm “giám sát” tại khoản 1 Điều 2 của dự thảo Luật theo hướng: Bổ sung, làm rõ tính chất hoạt động giám sát của Quốc hội, HĐND là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước; Bổ sung, làm rõ mục tiêu của hoạt động giám sát là góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, địa phương, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
Về nguyên tắc hoạt động giám sát (Điều 3), một số ý kiến đề nghị bổ sung nguyên tắc Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện, trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một số ý kiến đề nghị rà soát Luật Giám sát hiện hành để bổ sung, quy định đầy đủ hơn các nguyên tắc trong hoạt động giám sát, bảo đảm hoạt động giám sát có trọng tâm, trọng điểm và gắn kết với các chức năng quan trọng khác của Quốc hội và HĐND.
Trên cơ sở kế thừa các nguyên tắc hoạt động giám sát đã được quy định tại Luật Giám sát hiện hành, đồng thời, tiếp thu ý kiến của ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo rà soát, nghiên cứu kỹ lưỡng và bổ sung 3 nguyên tắc mới tại Điều 3 của dự thảo Luật như sau: Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam; Giám sát toàn diện nhưng có trọng tâm, trọng điểm, bám sát thực tiễn; Bảo đảm gắn kết giữa hoạt động giám sát với việc hoàn thiện chính sách, pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương.
Ông Bình cũng cho hay, về thẩm quyền giám sát của Quốc hội, HĐND (các điều 13, 16, 19, 22, 25, 27, 30, 33, 36 và 37) một số ý kiến đề nghị nghiên cứu, sửa đổi để phân định rõ thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc (HĐDT), Ủy ban của Quốc hội thường xuyên, tập trung đối với các cơ quan nhà nước ở trung ương; chỉ giám sát đối với cơ quan nhà nước ở địa phương trong trường hợp thật sự cần thiết để tránh trùng lặp với hoạt động giám sát của HĐND.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: Điều 4 của Luật Giám sát hiện hành có điều khoản quy định chung về thẩm quyền của các chủ thể mà không xác định rõ đối tượng chịu sự giám sát, phạm vi giám sát, dẫn đến thực tiễn thực hiện còn nhiều bất cập, trùng lặp, làm giảm hiệu quả giám sát. Để khắc phục hạn chế này, đồng thời thực hiện chủ trương tăng cường phân cấp, phân quyền, tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật được chỉnh lý theo hướng bỏ các nội dung quy định chung, đồng thời quy định rõ thẩm quyền của từng chủ thể giám sát tại các điều 13, 16, 19, 22, 25, 27, 30, 33, 36 và 37 của dự thảo Luật.
Trong đó xác định: Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, HĐDT, Ủy ban của Quốc hội thường xuyên giám sát hoạt động và văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ở trung ương; HĐND, Thường trực HĐND, Ban của HĐND cấp tỉnh thường xuyên giám sát hoạt động và văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ở cấp tỉnh; HĐND, Thường trực HĐND, Ban của HĐND cấp xã giám sát hoạt động và VBQPPL của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ở cấp xã; Trường hợp cần thiết do yêu cầu của thực tiễn, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội tiến hành giám sát hoạt động của các chủ thể khác ở trung ương và địa phương; HĐND và các cơ quan của HĐND cấp tỉnh tiến hành giám sát các chủ thể khác ở địa phương (quy định này tiếp tục kế thừa khoản 2 Điều 4 của Luật Giám sát hiện hành và không bỏ thẩm quyền giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân tại địa phương).
Về bổ sung hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, HĐDT, Ủy ban của Quốc hội giám sát việc tổ chức lấy ý kiến trong quá trình xây dựng dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết (Điều 17 và Điều 20) có một số ý kiến đề nghị bổ sung hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, HĐDT, Ủy ban của Quốc hội giám sát việc cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tuân thủ việc tổ chức lấy ý kiến trong quá trình xây dựng chính sách và soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết.
“Tiếp thu ý kiến ĐBQH, trên cơ sở rà soát kỹ lưỡng, bảo đảm thống nhất với quy định tại Điều 33 của Luật Ban hành VBQPPL, dự thảo Luật đã bổ sung hoạt động mới của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, HĐDT, Ủy ban của Quốc hội về giám sát việc cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tuân thủ việc tổ chức lấy ý kiến trong quá trình xây dựng dự án luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội”, ông Bình cho hay.
Về bổ sung hoạt động của HĐDT, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn Đại ĐBQH, Ban của HĐND giám sát việc giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri (Điều 20 và Điều 23) có một số ý kiến đề nghị bổ sung hoạt động của HĐDT, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, Ban của HĐND giám sát việc giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri để phù hợp với thực tiễn và nâng cao hiệu quả công tác này.
Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉnh lý dự thảo Luật, bổ sung hoạt động giám sát việc giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri đối với HĐDT, Ủy ban của Quốc hội tại điểm e khoản 1 Điều 20; đối với Đoàn ĐBQH tại điểm c khoản 1 Điều 23; đối với Ban của HĐND tại điểm c khoản 1 Điều 34. Phạm vi, trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động này sẽ được quy định chi tiết trong Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Riêng về thẩm quyền giám sát của Tổ đại biểu HĐND (Điều 37) có một số ý kiến đề nghị kế thừa quy định của Luật Giám sát hiện hành về thẩm quyền giám sát của Tổ đại biểu HĐND. Một số ý kiến đề nghị không quy định thẩm quyền, hoạt động giám sát của Tổ đại biểu HĐND.
Vấn đề này ông Bình thông tin còn có hai loại ý kiến. Theo đó, loại ý kiến thứ nhất cho rằng, việc tiếp tục quy định thẩm quyền giám sát của Tổ đại biểu HĐND trên cơ sở kế thừa Luật Giám sát hiện hành là cần thiết, vừa bảo đảm phù hợp cơ cấu tổ chức của HĐND, vừa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của Tổ đại biểu HĐND. Tuy nhiên, để khắc phục hạn chế trong thời gian qua, hoạt động giám sát của Tổ đại biểu HĐND tại một số địa phương chưa thực sự hiệu quả thì cần quy định giới hạn thẩm quyền, phạm vi giám sát của Tổ đại biểu HĐND chỉ khi được HĐND hoặc Thường trực HĐND cùng cấp giao, bảo đảm phù hợp với mô hình tổ chức, điều kiện bảo đảm hoạt động của Tổ đại biểu HĐND. Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành loại ý kiến này và đã thể hiện là phương án 1 tại Điều 37 của dự thảo Luật.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng, thực tiễn thời gian qua, hoạt động giám sát của Tổ đại biểu HĐND còn ít, hình thức, chưa thật sự hiệu quả, mặt khác có thể chồng chéo với hoạt động giám sát của các chủ thể khác tại địa phương. Do đó, đề nghị dự thảo Luật không quy định về thẩm quyền giám sát của Tổ đại biểu HĐND.
Trước vấn đề trên, ông Bình nêu rõ Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉnh lý dự thảo Luật, thể hiện 2 phương án tại Điều 37 để xin ý kiến các vị ĐBQH.













