Ai là nguyên mẫu nhân vật trong bài hát 'Hành quân xa'
'Hành quân xa dẫu qua nhiều gian khổ/ Vai vác nặng ta đã đổ mồ hôi/ Mắt ta sáng, chí căm thù, bảo vệ đồng quê ta tiến bước/ Đời chúng ta, đâu có giặc là ta cứ đi'… Ca từ giản dị, ngắn gọn, nhịp điệu tựa như bước chân đầy khí thế xung trận trong bài hát 'Hành quân xa' do nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác năm 1953 đã trở thành hành khúc của người lính trong những năm kháng chiến chống Pháp.
Bài hát ra đời trước khi chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn, góp phần khích lệ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của bộ đội ta. Nhưng ít ai biết rằng câu hát "Đời chúng ta, đâu có giặc là ta cứ đi” lại bắt nguồn từ câu nói của một người anh hùng có thật. Tác giả câu nói nổi tiếng đó là Lê Văn Dỵ (1926 – 1970), một trong 33 cán bộ, chiến sĩ đã lập thành tích đặc biệt xuất sắc tại mặt trận Điện Biên Phủ năm 1954; được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (LLVTND) năm 2008.
“Đâu có giặc là ta cứ đi”
Anh hùng Lê Văn Dỵ sinh năm 1926 trong một gia đình nông dân yêu nước có nhiều đóng góp với cách mạng tại xã Đồng Tâm, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên (nay là xã Mê Linh, Hà Nội). Đầu năm 1945, khi chưa đầy 20 tuổi, Lê Văn Dỵ đã xung phong vào du kích quân, sau đó được công nhận là chiến sĩ giải phóng quân, tham gia nhiều trận đánh gây tiếng vang ở Vĩnh Yên - Bạch Hạc - Việt Trì. Tháng 3/1948, Lê Văn Dỵ được kết nạp Đảng.

Đồng chí Lê Văn Dỵ và vợ Hoàng Thị Hừu, năm 1958.
Trong cuộc đời của anh hùng Lê Văn Dỵ, sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc. Trong hồi ký “Đường ta đi”, ông viết rằng năm 1946, ông bị thương nên phải lui về hậu phương điều trị. Một người bạn cùng quê tưởng Lê Văn Dỵ đã hy sinh nên báo tin về cho gia đình. Cả nhà đau buồn vô hạn, thắp hương khấn vái. Rồi bỗng một ngày gia đình nhận được thư của Dỵ thì bàng hoàng, nửa tin nửa ngờ. Sau khi các anh trai đến thăm Dỵ đã mang về tin vui: Lê Văn Dỵ còn sống. Với gia đình ông khi đó, nỗi đau bỗng chốc biến thành niềm vui vô bờ.
Lê Văn Dỵ trải qua 24 năm liên tục phục vụ trong quân đội, trưởng thành từ chiến sĩ, lên cấp chỉ huy Trung đoàn và Phó ban Tác chiến Sư đoàn; từng chiến đấu trong rất nhiều đơn vị như Trung đoàn Vĩnh Phúc (1946), Trung đoàn 72 Bắc Kạn (1947 – 14/9/1949), Trung đoàn 174 Cao Bắc Lạng (15/9/1949 – 10/1953), Trung đoàn 176 (10/1953 – 1956)… Lê Văn Dỵ đã lập nhiều chiến công xuất sắc, trong đó có vai trò Chỉ huy trưởng Đại đội 811 ngoan cường chiến đấu với quân thù và giành thắng lợi oanh liệt tại cứ điểm đồi C1 - một trong những cứ điểm quan trọng nhất của quân Pháp tại Điện Biên.
Nhà văn quân đội Hồ Phương từng kể rằng, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, văn nghệ sĩ đi cùng chiến sĩ nhiều lắm, trong đó có nhạc sĩ Đỗ Nhuận. Hồi đó, mọi cái luôn được giữ bí mật đến phút chót nên việc di chuyển quân đi rồi trở lại, đi rồi trở lại khiến nhiều chiến sĩ thắc mắc bảo không biết đi đâu mà đi hoài không đánh. Đại đội trưởng Lê Văn Dỵ nghe thấy vậy liền bảo: "Mấy ông này hay nhỉ, đời chúng ta, đâu có giặc là ta cứ đi!". Nhạc sĩ Đỗ Nhuận đã bắt được ý nghĩ từ câu nói của Đại đội trưởng Lê Văn Dỵ, ngay đêm đó đã sáng tác ca khúc "Hành quân xa" lấy câu nói trên làm ý chủ đạo của bài hát. Ngày hôm sau, vẫn trong lúc hành quân trước khi trận Điện Biên Phủ mở màn, bài hát được phổ biến rộng rãi và được cán bộ, chiến sĩ biến thành lòng kiên trì, ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Pháp.
Một người như Lê Văn Dỵ, chiến đấu luôn dũng cảm, thông minh, dám vác súng gỗ để chặn đuổi xe ôtô chở đầy lính Nhật, biết huy động quần chúng gây áp lực buộc bọn Nhật phải bỏ chạy. Người như thế, khi nói câu “Đời chúng ta, đâu có giặc là ta cứ đi” một cách mộc mạc, dứt khoát mà thật anh hùng, đâu có gì lạ.
Lúc sinh thời, trong cuốn “Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết về chiến dịch Điện Biên Phủ, trong đó nhắc tới tinh thần chiến đấu quả cảm của Lê Văn Dỵ và đồng đội: “Chiều ngày 11/4/1954, Đại đội 811 do Đại đội trưởng Lê Văn Dỵ chỉ huy được đưa ra phòng ngự tại C1 thay cho các đơn vị đã chiến đấu suốt 2 ngày rút về phía sau củng cố… Trung đoàn trưởng Vũ Lăng lên thăm trận địa ngạc nhiên khi thấy bên trái đồi đã bị bom đạn làm biến dạng, cách địch vài chục mét, các chiến sĩ ta vẫn có một cuộc sống đàng hoàng trong những căn hầm lót vải dù, đọc sách, đánh tú lơ khơ… Đại đội 811 đã phòng ngự tại C1 hai mươi ngày liền, cho đến lúc ta hoàn toàn tiêu diệt cứ điểm này vào cuối tháng 4”.
Thực tế đã cho thấy, cuộc đời của Đại đội trưởng Lê Văn Dỵ đã diễn ra đúng như câu nói của ông "Đời chúng ta, đâu có giặc là ta cứ đi". Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, hòa bình lập lại trên miền Bắc Việt Nam, nhưng ông chỉ hưởng cuộc sống đó cùng vợ con, gia đình một thời gian ngắn. Sau đó ông cùng đơn vị lên đường đi chiến đấu, làm nghĩa vụ quốc tế tại nước bạn Lào, với cương vị Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 4, Lữ đoàn 316, tiếp tục lập nhiều chiến công
Số phận đặc biệt của cuốn hồi ký
Tháng 10/1964, Lữ đoàn 316 được điều trở về hậu phương. Tháng 12/1964, Lê Văn Dỵ bắt đầu đặt bút viết hồi ký “Đường tôi đi” để ghi lại “những mẩu chuyện sinh hoạt và chiến đấu trong đời bộ đội”, chẳng thể ngờ những trang viết ấy lại mang một số phận đặc biệt.
Trong cuốn hồi ký có 1 trang đúp viết bằng máu vào ngày 22/3/1966 trong đó có câu: “…Tôi đi, quyết đi tới đích miền Nam thân yêu để tiêu diệt hết giặc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai”. Đây được coi là “quyết tâm thư” của anh hùng Lê Văn Dỵ hiện được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam cùng với bản gốc cuốn hồi ký “Đường tôi đi”.

Bìa cuốn sách “Đâu có giặc là ta cứ đi” của anh hùng liệt sĩ Lê Văn Dỵ.
Tuy không phải là cán bộ chuyên làm công tác tuyên huấn hay chính trị, cũng chưa được đào tạo ở trường lớp chính quy, nhưng với tư chất thông minh, phong cách làm việc chính xác, khoa học của một cán bộ chỉ huy tác chiến giàu kinh nghiệm, Lê Văn Dỵ đã góp phần làm sống lại những trang sử hào hùng của quân đội ta về chiến cục Đông Xuân 1953-1954 nói chung và chiến cục Điện Biên Phủ nói riêng, mà chính ông là người trong cuộc. Đó chính là những trận đánh, những câu chuyện đời sống của bộ đội vô cùng sinh động, có buồn, có vui và đầy lạc quan cách mạng. Câu chuyện nào cũng thấm đẫm tình đồng chí, tình quân dân và cả tinh thần đoàn kết Việt – Lào anh em.
Đọc những trang hồi ký, chân dung anh bộ đội Cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp thật giản dị, nhưng đầy khỏe khoắn, lạc quan. Trong chiến đấu với quân thù thì dũng cảm, kiên cường, coi thường cái chết và sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc. Trong cuộc sống đời thường thì chứa chan tình đồng chí, đồng đội; trong tình cảm riêng tư thì luôn hướng về người thân, về quê hương, với nỗi niềm nhớ thương da diết và thủy chung…
Ngày 17/3/1965, Lê Văn Dỵ đã viết xong những dòng hồi ký về giai đoạn chống thực dân Pháp. Nhưng khi bắt đầu viết những dòng đầu tiên “Trận đầu trên đất bạn”, thì ông nhận được lệnh cùng đơn vị vượt Trường Sơn sang Lào tiếp tục chiến đấu. Những trang bản thảo dở dang đành gửi lại ở hậu cứ Mộc Châu, vì cuộc chiến ngày càng khốc liệt hơn.
Ngày 13/3/1970, Lê Văn Dỵ đã anh dũng ngã xuống tại chiến trường Lào, giữa lúc Chiến dịch Cánh Đồng Chum – Xiêng Khoảng đang bước vào giai đoạn ác liệt nhất. Khi ấy ông mới 44 tuổi, đang đảm nhiệm trọng trách Phó ban Tác chiến Sư đoàn 316. Bản thảo tập hồi ký dở dang của liệt sĩ Lê Văn Dỵ được đồng đội gửi về gia đình sau khi đơn vị làm thủ tục báo tử.
Năm 2008, liệt sĩ Lê Văn Dỵ được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam đã đề nghị được phối hợp với Ban Liên lạc Cựu chiến binh Sư đoàn 316 tại Hà Nội xuất bản tập hồi ký mang tên “Đâu có giặc là ta cứ đi”. Tác phẩm ra đời đúng dịp kỷ niệm 55 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (1954 - 2009). Tiếc là Anh hùng liệt sĩ Lê Văn Dỵ chưa có tên tác giả trong bản in này.
Năm 2014, nhân kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, cuốn hồi ký “Đâu có giặc là ta cứ đi” đã được bổ sung tư liệu, chỉnh lý. Lần in này, tác giả cuốn sách là Anh hùng LLVTND, liệt sĩ Lê Văn Dỵ đứng tên chung với Ban Liên lạc Cựu chiến binh Sư đoàn 316 tại Hà Nội.
Mười năm sau, nhân kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2024), “Đâu có giặc là ta cứ đi” lại được chỉnh sửa, bổ sung thêm tư liệu và tái bản. Trong lần in này, tác giả là Anh hùng LLVTND Lê Văn Dỵ được đứng tên riêng. Đặc biệt, cũng trong dịp này, tỉnh Điện Biên đã quyết định lấy tên Lê Văn Dỵ đặt cho một con đường của tỉnh để ghi nhớ công lao của ông.
Cuộc đời của anh hùng Lê Văn Dỵ có dấu ấn đậm nét của người vợ tào khang bà Hoàng Thị Hừu (1940-2020). Bà sinh trưởng tại xã Phú Sơn, huyện Nho Quan cũ, tỉnh Ninh Bình. Ông bà kết hôn ngày 6/4/1955. Năm 1970, khi Anh hùng Lê Văn Dỵ hy sinh, bà Hừu mới 30 tuổi, nhưng đã ở vậy thờ chồng, nuôi dạy 5 người con (2 trai, 3 gái) trưởng thành. Bà có 2 con đi bộ đội, trong đó một người là thương binh trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam năm 1978; người con trai cả là Lê Văn Hòa gia nhập lực lượng Công an nhân dân 20 năm, sau đó chuyển ngành sang Ban Nội chính Trung ương (hàm vụ trưởng) trước khi nghỉ hưu.











