Bài 2: Cải cách nền hành chính quốc gia - bước đột phá mạnh mẽ
Trước những yêu cầu bức thiết của cuộc sống, cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy lần này do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo rất cần thiết, thể hiện chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng; không chỉ chống lãng phí mà còn thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vai trò và trách nhiệm của Nhà nước và hệ thống chính trị trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vì sự giàu mạnh, thịnh vượng và hạnh phúc của Nhân dân.
Từ cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, Đảng ta chủ trương cải cách nền hành chính quốc gia gắn liền với công cuộc đổi mới đất nước theo đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Cải cách một bước nền hành chính và tổ chức bộ máy
Đại hội VI của Đảng (1986) đề ra đường lối đổi mới kinh tế, tạo tiền đề thoát khỏi khủng hoảng và nền hành chính, kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp. Đại hội VII (1991) xác định tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước và đề ra những nhiệm vụ về sửa đổi Hiến pháp, cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, của chính quyền địa phương (CQĐP), đặt nền tảng cải cách một bước nền hành chính và tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị với các nội dung chủ yếu: (1) Cải cách thể chế của nền hành chính; (2) Chấn chỉnh tổ chức bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính; (3) Xây dựng đội ngũ cán bộ,̣ công chức. Đồng thời, tập trung triển khai đột phá trên 7 lĩnh vực cấp bách đang gây phiền hà dân, tác động tiêu cực sự phát triển bấy giờ, gồm: nhà đất, đăng ký sản xuất - kinh doanh, xuất nhập khẩu, đầu tư trực tiếp, thuế, trật tự an toàn giao thông và xuất nhập cảnh.

Tỉnh ủy Lâm Đồng tổ chức Hội nghị trực tuyến quán triệt các văn bản chỉ đạo của Trung ương và tỉnh năm 2025. Ảnh: V. Hậu
Tuy nhiên, những cải cách mới chỉ là bước đầu, nền hành chính vẫn còn nặng tàn dư tư tưởng và cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội; chưa đáp ứng được những yêu cầu phục vụ Nhân dân trong điều kiện mới. Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, hiệu lực, hiệu quả quản lý thấp; phương thức quản lý hành chính vừa tập trung, quan liêu lại vừa phân tán, chưa thông suốt. Bộ máy hành chính ở các địa phương và cơ sở chưa thực sự gắn bó với dân, không nắm chắc được những vấn đề khiếu kiện nổi cộm trên địa bàn; lúng túng, bị động khi xử lý các tình huống phức tạp.
Thực tế đó đòi hỏi phải có một cuộc cải cách toàn diện, đồng bộ nền hành chính nhà nước, trong đó có tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị để đáp ứng công cuộc cải cách kinh tế, phát huy nền dân chủ và hội nhập quốc tế. Trước yêu cầu cấp bách đó, các Chương trình tổng thể cải cách hành chính (CCHC) nhà nước ra đời, triển khai thực hiện, từng bước tạo nên những bước đột phá quan trọng.
Đột phá từ các Chương trình tổng thể cải cách hành chính
Trong suốt hơn 2 thập kỷ kể từ năm 2000 đến nay, 3 Chương trình tổng thể CCHC ở nước ta được Chính phủ ban hành, triển khai thực hiện với các mục tiêu rõ ràng, lộ trình cụ thể, bài bản trong từng giai đoạn (giai đoạn 2001 - 2010; giai đoạn 2011 - 2020 và giai đoạn 2021 - 2030 đang thực hiện) đã đạt được những thành tựu lớn trên các lĩnh vực chủ yếu của nền hành chính, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước.
Thể chế nền hành chính (mà trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính) không ngừng được hoàn thiện, đồng bộ, ngày càng cải tiến đơn giản hóa thủ tục, quy trình, công khai, minh bạch, rút ngắn thời hạn giải quyết. Bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương đã được phân định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ bản khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng quản lý. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và tinh thần, thái độ phục vụ Nhân dân nâng lên so với trước. Các nguồn lực công phục vụ cho nền hành chính được khai thác, phát huy, góp phần phục vụ Nhân dân, cải cách công vụ và hiện đại hóa nền hành chính, xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số. Chỉ số hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS) tăng đều qua từng năm, năm 2023 ở mức 82,66% (năm 2022: 80,08%).
Tuy nhiên, theo Báo cáo CCHC năm 2024 của Chính phủ và đánh giá tại Nghị quyết số 27-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 (Khóa XIII), Kết luận số 121-KL/TW ngày 24.01.2025 của Ban Chấp hành Trung ương và nhận định của Tổng Bí thư Tô Lâm: Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn còn những hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối, gây lãng phí và kìm hãm sự phát triển. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đông nhưng cơ cấu chưa hợp lý, thiếu hụt chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực quan trọng.
Người đứng đầu Đảng ta nhấn mạnh: mô hình tổng thể tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nước ta tuy đã được đổi mới ở một số bộ phận, nhưng cơ bản vẫn theo mô hình được thiết kế từ hàng chục năm trước, nhiều vấn đề không còn phù hợp với điều kiện mới là trái với quy luật phát triển; tạo ra tâm lý “Nói không đi đôi với làm”. Thủ tục hành chính trên một số lĩnh vực, nhất là lĩnh vực đất đai ở cấp huyện vẫn còn rườm rà, phức tạp, người dân như thể bị đánh đố, khó tiếp cận... Đó là những nguyên nhân chủ yếu trong nhiều nguyên nhân dẫn đến nhiều chủ trương, chính sách của Đảng chậm đi vào thực tiễn cuộc sống hoặc một số chủ trương không được triển khai hoặc triển khai hình thức trên thực tế.
Theo Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 10.01.2025, tốc độ tăng GDP nước ta năm 2024 tăng 7,09%, quy mô nền kinh tế đạt khoảng 476,3 tỷ USD, đứng thứ 33 thế giới; thu nhập bình quân/người đạt 4.700 USD, thuộc nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao; lần đầu tiên, Việt Nam được Liên Hiệp Quốc xếp vào nhóm quốc gia có chỉ số Phát triển Chính phủ điện tử khá cao (đứng thứ 71/193 quốc gia) cùng nhiều chỉ số đánh giá và lời ca tụng khác. Đó là thực tế ghi nhận sự bứt phá của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự nổ lực của toàn dân và cả hệ thống chính trị.
Tuy vậy, nếu thỏa mãn với thành quả ban đầu đạt được, ngủ quên trên “vòng nguyệt quế” sẽ có nguy cơ nền kinh tế đất nước rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Thực tế, nhiều chỉ số đánh giá của Việt Nam so với các nước trong khu vực vẫn còn ở mức thấp. Chẳng hạn, năng suất lao động của Việt Nam chỉ cao hơn Myanma, Campuchia, Lào và chỉ bằng 11,3% mức năng suất của Singapore; 23% của Hàn Quốc; 24,4% của Nhật Bản; 33,1% của Malaysia; 59,1% của Thái Lan; 60,3% của Trung Quốc; 77% của Indonesia và bằng 86,5% của Philippines. Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam đứng sau nhiều nước ASEAN. Hay chỉ số Phát triển Chính phủ điện tử của Việt Nam cũng xếp dưới Indonesia, Malaysia, Thailand, Singapore nhiều bậc. Tình trạng tham nhũng, lãng phí, thất thoát tài sản ở khu vực công nước ta cũng ở mức cao.
Do đó, cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy lần này do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo rất cần thiết, thể hiện chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng; không chỉ chống lãng phí mà còn thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vai trò và trách nhiệm của Nhà nước và hệ thống chính trị trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vì sự giàu mạnh, thịnh vượng và hạnh phúc của Nhân dân.