Bất ngờ nhưng không ngạc nhiên
Niên đại thuyền song thân phát hiện ở Bắc Ninh đã được hé lộ khoảng 1.800-1.600 năm cách ngày nay, đưa giới khảo cổ trở lại với một di sản kỹ thuật của cư dân Đông Sơn: Thân cây khoét rỗng làm đáy, ghép ván mạn bằng mộng, chốt gỗ để nâng thành và tạo kết cấu vững chắc trên mặt nước.

Thuyền cổ Bắc Ninh được xác định niên đại vào khoảng 1.600 đến 1.800 năm
Từ cấu trúc, di vật kèm theo, đến kết quả định tuổi phóng xạ, các bằng chứng đồng quy cho thấy đây không chỉ là phát hiện gây chú ý mà là một mảnh ghép quan trọng của lịch sử kỹ thuật Việt cổ, xứng đáng được bảo tồn theo tầm nhìn quốc gia và quốc tế. Những nhận định trước đây về thuyền cổ ở Bắc Ninh có niên đại khoảng thời Lý - Trần đã bị xô ngã (?).
Thuộc loại cao cấp thế giới
Theo nguồn tin của Văn Hóa, kết quả xác định niên đại carbon (C14) bước đầu cho thấy thuyền cổ Bắc Ninh rơi vào giai đoạn Đông Sơn muộn. “Ngay từ hội thảo “đầu bờ” được tổ chức vào cuối tháng 3.2025, tôi đã nói đây là kỹ thuật Đông Sơn điển hình”, TS Nguyễn Việt, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tiền sử Đông Nam Á trả lời dứt khoát. Điểm mấu chốt nằm ở kỹ thuật: Dùng độc mộc làm đáy, ghép ván mạn bằng mộng, chốt gỗ để tăng chiều cao và ổn định thân thuyền. TS Việt nhấn mạnh đây là truyền thống kỹ thuật “thuộc hàng cao cấp của thế giới” ở lát cắt thời gian ấy, đặc biệt vì không phụ thuộc kim loại mà tận dụng mộng gỗ để liên kết.
Dấu vết mộng, chốt còn rành mạch trên thân gỗ cho phép phục nguyên quy trình: Thân cây lớn được khoét rỗng; mép thành được cắt tạo vai; ván mạn đẽo theo chiều cong tự nhiên, khoan lỗ mộng trên và dưới, đặt then gỗ kẹp, chèn chốt để cố định. Giải pháp này khiến độc mộc vốn hạn chế về chiều cao thành được “nâng cấp” đưa phương tiện đủ an toàn cho sông nước đồng bằng. Về tranh luận trong việc xác định niên đại ban đầu, TS Nguyễn Việt lưu ý sai số có thể phát sinh do chưa tách sạch tạp chất hữu cơ trong mẫu C14, dẫn tới xu hướng “trẻ hóa” kết quả. Tuy vậy, ngay cả trong dải 1.600- 1.800 năm, hiện vật vẫn ổn định trong khung Đông Sơn muộn, đầu Công nguyên. “Ở đây, kỹ thuật mới là bằng chứng cứng, còn C14 chỉ là hỗ trợ”, ông Việt nói.
Một kết cấu nổi đặc biệt
Khác với những độc mộc đi lại hằng ngày, thuyền song thân tại Bắc Ninh gợi mở một kết cấu nổi có sàn độc đáo: Hai thân độc mộc ghép song song, liên kết bằng thanh ngang mộng - chốt; trên đầu và giữa thân còn lỗ cắm cột, khả năng đỡ mái nhẹ hoặc một không gian kiến trúc nhỏ. Đáng chú ý, hai đầu đối xứng thay vì phân biệt mũi, lái, củng cố giả thuyết bệ nổi hơn là thuyền di chuyển.
“Tôi không gọi hiện vật tại Bắc Ninh là thuyền. Tôi cho rằng đây là một công trình nổi, có thể dùng cho nghi lễ, thờ tự, hoặc sinh hoạt cộng đồng trên mặt nước”, TS Nguyễn Việt nhận định. “Qua những chiếc thuyền độc mộc đã nghiên cứu, tôi có thể khẳng định người Việt cổ đã ý thức rõ ràng về khí động học để đẽo đầu và đuôi thuyền. Hiện vật ở Bắc Ninh thì đầu và đuôi lại giống nhau. Dấu vết các thanh giằng đầu thuyền còn khá rõ, cho phép ước tính có khoảng 8 thanh ngang, cách nhau 1,2 - 1,5m, nâng đỡ một mặt sàn phẳng phía trên”. Trong tương quan khu vực, cấu trúc “thuyền song thân” không phổ biến trong tư liệu Đông Nam Á, càng làm hiện vật ở Bắc Ninh trở nên hiếm quý.
“Đây là bằng chứng rằng cư dân Đông Sơn hiểu gỗ, hiểu nước, hiểu kết cấu; họ giải quyết bài toán ổn định trên mặt nước bằng cách nhân đôi thân độc mộc và dựng sàn công năng phía trên”, TS Việt nhận định. Từ góc độ lịch sử kỹ thuật, thuyền cổ Bắc Ninh đặt văn hóa Đông Sơn vào cuộc đối thoại toàn cầu về thuyền cổ: Cùng thời La Mã cũng dùng mộng, chốt, nhưng giải pháp của Đông Sơn xuất hiện sớm và thích nghi bản địa; dùng hoàn toàn vật liệu hữu cơ (gỗ, then, chốt) mà vẫn đạt độ bền, cho thấy tư duy liên kết mộc rất phát triển.
Phương án bảo tồn cần tầm nhìn quốc tế
TS Nguyễn Việt nhấn mạnh, “hai thuyền cổ không chỉ thuộc Bắc Ninh. Đây là tài sản chung của đất nước, thậm chí của nhân loại. Cách nhìn về bảo tồn phải vượt qua ranh giới hành chính”. Từ kinh nghiệm thực địa và bảo tồn thuyền cổ Quảng Ngãi (thời Trần), ông đề xuất hai kịch bản: Thứ nhất, bảo tồn tại chỗ: Đào, kè một hồ ngầm chống thấm, cô lập khối đất khỏi nguồn nước xâm thực; kiểm soát pH (hiện khu vực ước khoảng pH ~ 4, tính axit do phèn lưu huỳnh); dùng vật liệu cách ẩm, phản xạ (tấm xốp mặt nhôm…) để ổn định nhiệt, ẩm; mái che tránh nước mưa. Trạng thái bán ngập ổn định giúp gỗ không co ngót - nứt vỡ khi tách đột ngột khỏi môi trường cũ.
Thứ hai, bảo tồn trong phòng thí nghiệm: Tháo rời từng tấm gỗ, đánh số; trung hòa lưu huỳnh bằng quy trình ngâm, thay nước định kỳ khoảng 6 tháng, theo dõi đến khi pH 6-7; sau đó tiêm PEG (polyethylene glycol) tăng dần nồng độ trong khoảng 10 tháng để thay thế nước trong thớ gỗ; bọc kín cho khô chậm tới trạng thái ổn định cơ học, đủ điều kiện trưng bày. Mô hình này từng được nhóm tác giả áp dụng, tổng chi phí ước khoảng 98.000 USD cho một thuyền lớn, với sự hỗ trợ chuyên gia Thụy Điển, Đức, Pháp. “Nếu địa phương đồng thuận, các đối tác quốc tế sẵn sàng đồng hành và tài trợ, bởi giá trị hiếm có của hiện vật”, ông cho biết.
TS Nguyễn Việt gửi gắm một thông điệp, rằng khoa học cần tinh thần đối chiếu và tầm nhìn mở: “Kỹ thuật đóng thuyền Đông Sơn đã cho thấy trí tuệ vật liệu và tư duy kết cấu của người Việt cổ. Hiện vật phát hiện tại Bắc Ninh không chỉ bổ sung dữ liệu niên đại, mà quan trọng hơn, nó yêu cầu chúng ta bảo tồn đúng chuẩn, để hiện vật có thể lên tiếng với công chúng hôm nay và thế giới ngày mai”.
Nguồn Văn hóa: http://baovanhoa.vn/van-hoa/bat-ngo-nhung-khong-ngac-nhien-174874.html