Bí ẩn lịch sử phía sau Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục

Đông Kinh Nghĩa Thục gắn liền với tên tuổi chí sĩ Lương Văn Can, ngọn cờ đầu, nhà giáo dục đã để lại di sản khai trí và tinh thần dân tộc vượt thời gian.

Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục sau khi được chỉnh trang đang trở thành điểm nhấn mới của Thủ đô, thu hút sự chú ý của dư luận. Sau công trình hiện đại ấy là cả một lớp trầm tích lịch sử, gắn với tên tuổi Lương Văn Can, nhà giáo dục duy tân, người đã gieo những hạt mầm văn hóa, tinh thần dân tộc từ ngôi trường mang tên Đông Kinh Nghĩa Thục.

 Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục sau khi được chỉnh trang. Ảnh: Mai Loan.

Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục sau khi được chỉnh trang. Ảnh: Mai Loan.

Lá cờ đầu phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục

Lương Văn Can (1854 - 1927), tên chữ là Hiếu Liêm và Ôn Như, tên hiệu là Sơn Lão, quê ở làng Nhị Khê, xã Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Đông (nay là xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội).

Xuất thân trong gia đình nông dân nghèo nhưng có truyền thống hiếu học, ông sớm tiếp thu Nho học và năm 1874 thi đỗ Cử nhân.

 Chí sĩ Lương Văn Can (1854-1927). Ảnh: Tư liệu.

Chí sĩ Lương Văn Can (1854-1927). Ảnh: Tư liệu.

Ngay từ thuở thanh niên, Lương Văn Can đã bộc lộ khí phách hiên ngang cùng tấm lòng yêu nước sâu sắc. Tương truyền, một người thầy cũ của ông tham gia phong trào chống Pháp bị bắt và xử chém, thi thể bị bêu ở phủ Hoài Đức. Trước nỗi sợ liên lụy, không ai dám đứng ra nhận về mai táng, chỉ riêng Lương Văn Can dũng cảm dâng sớ xin chuộc xác. Triều đình nhà Nguyễn không chỉ chấp thuận mà còn ban lời khen ngợi ông là bậc nghĩa sĩ.

Tinh thần ấy sau này được thể hiện trọn vẹn qua phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, nơi ông vừa là người khởi xướng, vừa trực tiếp điều hành và giảng dạy. Đứng trước cảnh đất nước nghèo nàn, lạc hậu, bị thực dân đô hộ, Lương Văn Can đã chọn con đường đấu tranh bằng tri thức, giáo dục và khát vọng “tự cường dân tộc”, một lựa chọn thể hiện tầm nhìn và bản lĩnh của một trí thức tiên phong.

Dù được bổ nhiệm chức Giáo thụ phủ Hoài Đức, ông từ chối quan trường để chọn con đường dạy học, mở trường, truyền bá kiến thức.

Đến năm 25 tuổi, ông rời quê lên Hà Nội, mở trường dạy học tại số 4 phố Hàng Đào. Từ căn nhà nhỏ ấy, ông bắt đầu xây dựng sự nghiệp giáo dục, gắn bó với Kẻ Chợ, trung tâm trí thức và thương mại Bắc Kỳ. Khi chứng kiến cuộc cải cách Minh Trị thành công tại Nhật Bản, học hỏi tinh thần canh tân của người Nhật, ông cùng bạn bè ấp ủ khát vọng lập trường mới nhằm khơi dậy tinh thần dân tộc, gieo mầm văn hóa tiến bộ.

Năm 1907, Đông Kinh Nghĩa Thục chính thức ra đời ở số 10 Hàng Đào. Căn nhà của ông cũng trở thành lớp học, nơi những buổi giảng dạy sôi nổi diễn ra. Đông Kinh Nghĩa Thục là trường “nghĩa học” dạy miễn phí, khai trí cho dân với các môn Việt văn, Hán văn, Pháp văn, khoa học thường thức. Ngoài giờ học, trường còn tổ chức những buổi diễn thuyết công khai, cổ động tinh thần tự cường và lòng yêu nước. Đây là điểm đặc biệt so với nền giáo dục Nho học bảo thủ đương thời.

Con đường khai phóng và tinh thần dân tộc

Sẵn có lòng yêu nước, chí tự lập và khí phách khảng khái, Lương Văn Can không ngừng học hỏi các nhà tư tưởng tiến bộ. Ông tham khảo sách vở của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu ở phương Đông và Voltaire, Montesquieu ở phương Tây để tìm hướng canh tân. Tư tưởng đó đã in dấu đậm nét trong chương trình giảng dạy của Đông Kinh Nghĩa Thục.

 Trường Đông Kinh nghĩa thục (ngôi nhà có 3 vòm cửa màu trắng) tại phố Hàng Đào, Hà Nội đầu thế kỷ XX. Ảnh: Baotanglichsu.

Trường Đông Kinh nghĩa thục (ngôi nhà có 3 vòm cửa màu trắng) tại phố Hàng Đào, Hà Nội đầu thế kỷ XX. Ảnh: Baotanglichsu.

Đông Kinh Nghĩa Thục được đánh giá là ngôi trường đặc biệt giai đoạn đầu thế kỷ XX. Ngoài mục đích giáo dục tinh thần yêu nước và nếp sống văn minh, trường còn cổ vũ thanh niên tham gia phong trào Đông Du của Phan Bội Châu và phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh. Ngay từ tên gọi “nghĩa thục” đã cho thấy sứ mệnh khai trí cho dân.

Các nhà nghiên cứu nhận định, Đông Kinh Nghĩa Thục được hưởng ứng bởi hai lý do lớn. Thứ nhất, tinh thần yêu nước được truyền bá sâu rộng cho quốc dân. Thứ hai, con đường khai phóng mở ra, dùng trí tuệ, văn minh và văn hóa để phục vụ cách mạng, giải phóng dân tộc.

Từ Hà Nội, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục nhanh chóng lan tỏa tới nhiều tỉnh như Hà Đông, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Quảng Nam… khiến thực dân Pháp lo ngại. Sau 9 tháng, chính quyền thực dân buộc phải đàn áp, cấm bốn tổ chức trực thuộc trường gồm Ban Giáo dục, Ban Tài chính, Ban Tu thư và Ban Cổ động, đều do Lương Văn Can sáng lập.

kết nối quá khứ và hiện tại

Mặc dù thực dân Pháp không có cớ để bắt ngay Lương Văn Can, nhưng năm 1908, sau một số cuộc bạo động ở Hà Nội, ông bị quy chụp và đày ra Côn Đảo. Dù bị lưu đày, tinh thần của ông và Đông Kinh Nghĩa Thục vẫn tiếp tục lan tỏa, gieo mầm yêu nước cho nhiều thế hệ học trò và sĩ phu.

 Các sĩ phu và thầy cô giáo của trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Ảnh: Baotanglichsu.

Các sĩ phu và thầy cô giáo của trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Ảnh: Baotanglichsu.

Bên cạnh giáo dục, Lương Văn Can còn là người đề cao vai trò thương nghiệp, khẳng định thương nhân Việt cần có cả “thương đức” lẫn “thương tài”.

Để hiện thực hóa mục tiêu của Đông Kinh Nghĩa Thục, tạo nguồn tài chính cho nghĩa thục cũng như hỗ trợ phong trào Đông Du, nhiều thành viên đã mở hiệu buôn tại Hà Nội, tiêu biểu như Đồng Lợi Tế, Tụy Phương, Hồng Tân Hưng, Công ty Đông Thành Xương...

Gia đình Lương Văn Can cũng đứng ra gây dựng một số cửa hàng riêng, đóng góp phần kinh phí quan trọng cho hoạt động của trường. Chính từ trải nghiệm thực tiễn này, tư tưởng coi trọng thương nghiệp của ông dần hình thành và trở thành một di sản tư tưởng bền vững, để lại dấu ấn sâu sắc cho các thế hệ doanh nhân Việt Nam sau này.

 Đám tang chí sĩ Lương Văn Can tại Hà Nội, năm1927. Ảnh: Baotanglichsu.

Đám tang chí sĩ Lương Văn Can tại Hà Nội, năm1927. Ảnh: Baotanglichsu.

Ông viết nhiều sách, mong mỏi xây dựng một tầng lớp doanh nhân vừa có đạo đức vừa có năng lực, coi kinh doanh là con đường chấn hưng quốc gia. Tư tưởng ấy vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay.

Hiện nay, di sản Đông Kinh Nghĩa Thục được nhắc nhớ mạnh mẽ khi Hà Nội tiến hành chỉnh trang Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục cạnh Hồ Gươm. Công trình mở rộng diện tích, tăng cường cây xanh, tiện ích công cộng và không gian đi bộ, đồng thời tôn vinh giá trị lịch sử của ngôi trường.

Quảng trường không chỉ là không gian đô thị mà còn là biểu tượng kết nối giữa quá khứ và hiện tại. Nơi đây gợi nhớ về một phong trào giáo dục duy tân, về người thầy Lương Văn Can, người đã dấn thân khai trí cho dân, để lại dấu ấn bất diệt trong hành trình dựng xây tinh thần dân tộc.

Ngày 12/6/1927, Lương Văn Can qua đời, trước khi mất ông ông gọi con cháu lấy giấy bút để ông viết một câu đối tuyệt bút, nguyên văn như sau.

“Xuất thánh ư Tây dữ xuất ư Đông, kỷ trùng dương tâm lý giai đồng, hu đốt tai khu khu cử nghiệp ngộ du, nhai đáo mộ niên tài hữu giác.

Vị quốc nhi sinh diệc vị quốc nhi tử, sổ thập tải chí nguyện vị toại, sở vọng giả thế thế hậu nhân tư ngã, di lai công sỉ tất vô vong”.

Dịch: Có thánh bên Tây cũng có thánh bên Đông, ngàn dặm trùng dương tâm lý như nhau, thường thay nghề cử nghiệp lầm ta, lúc tuổi xế chiều mới biết.

Vì nước mà sống, cũng vì nước mà chết, mấy chục năm trời mong ước không toại, chỉ vì nguyện người hậu lai nhớ tới, mối hờn đất nước đừng quên.

Mai Nguyễn

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: https://kienthuc.net.vn/bi-an-lich-su-phia-sau-quang-truong-dong-kinh-nghia-thuc-post1569059.html