Bộ Chính trị quyết định miễn học phí cho HS từ mầm non đến phổ thông công lập
Thời điểm thực hiện từ đầu năm học mới 2025-2026 (tháng 9/2025 trở đi).
Ngày 28/02/2025, Bộ Chính trị đã đồng ý với đề xuất của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc miễn học phí cho học sinh từ mầm non đến giáo dục phổ thông.
Căn cứ đề xuất
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” (Nghị quyết số 29) đã quy định “Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi vào năm 2015, nâng cao chất lượng phổ cập trong những năm tiếp theo và miễn học phí trước năm 2020”.
Triển khai Nghị quyết số 29 và Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010-2011 đến năm học 2014-2015, Chính phủ đã ban hành các quy định về học phí, trong đó quy định lộ trình học phí hằng năm và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập cho các đối tượng học sinh nghèo, học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh thuộc đối tượng chính sách xã hội, học sinh dân tộc thiểu số.
Năm 2024, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 91-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, trong đó tiếp tục định hướng “Nhà nước bảo đảm kinh phí cho giáo dục bắt buộc, giáo dục phổ cập, miễn học phí cho trẻ em mẫu giáo 5 tuổi và thực hiện các nhiệm vụ trọng điểm trong lĩnh vực giáo dục; ưu tiên đầu tư cho giáo dục, đào tạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo”; “từng bước thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 3, 4 tuổi”.
Hiện nay, đã có 10 tỉnh/thành phố đã ban hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh về miễn học phí mầm non, phổ thông cho năm học 2024-2025 là Quảng Ninh, Hải Phòng, Yên Bái, Quảng Nam, Khánh Hòa, Đà Nẵng, Bà Rịa- Vũng Tàu, Bình Dương và Long An. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều đối tượng học sinh, gia đình ở các địa phương khác đang phải đóng học phí.
Căn cứ Nghị quyết số 29, Kết luận số 91-KL/TW ngày 12/8/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, Nghị quyết 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, để thể hiện tính ưu việt của chế độ và chủ trương bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục, “không để ai ở lại phía sau”, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đề xuất Bộ Chính trị, Đảng ủy Chính phủ xem xét chính sách miễn học phí cho học sinh từ mầm non đến giáo dục phổ thông.
Bổ sung miễn học phí cho học sinh mầm non (từ 3 tháng đến 4 tuổi) và học sinh phổ thông
Hiện nay, Chính phủ đã ban hành các quy định miễn học phí cho các em học sinh. Theo quy định hiện hành, từ ngày 01/9/2025, Nhà nước sẽ thực hiện miễn học phí cho tất cả học sinh công lập từ mầm non 5 tuổi đến trung học cơ sở (đến hết lớp 9). Ngoài ra, Chính phủ cũng đã quy định chính sách giảm 50%-70% học phí, hỗ trợ chi phí học tập cho nhiều đối tượng học sinh nghèo, học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh thuộc đối tượng chính sách xã hội, học sinh dân tộc (học ở trường công lập và trường dân lập, tư thục).

Ảnh minh họa: Lã Tiến
Ngoài các đối tượng được miễn học phí theo quy định hiện hành nêu trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đề xuất và được Bộ Chính trị đồng ý bổ sung miễn học phí cho học sinh mầm non từ 3 tháng đến 4 tuổi và học sinh phổ thông. Theo đó, toàn bộ học sinh mầm non, học sinh tiểu học, học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông công lập sẽ được miễn học phí. Học sinh trường dân lập, tư thục được cấp bù học phí bằng mức học phí của trường công lập theo quy định của pháp luật; phần chênh lệch học phí giữa trường công lập và dân lập, tư thục sẽ do gia đình học sinh chi trả.
Theo thống kê, hiện cả nước có 23,2 triệu học sinh (chưa bao gồm học sinh học tại các trung tâm giáo dục nghề nghiệp và giáo dục thường xuyên), trong đó: 3,1 triệu học sinh mầm non dưới 5 tuổi; 1,7 triệu học sinh mầm non 5 tuổi; 8,9 triệu học sinh tiểu học; 6,5 triệu học sinh trung học cơ sở và 3 triệu học sinh trung học phổ thông.
Kinh phí để thực hiện chính sách miễn học phí cho học sinh
Trên cơ sở báo cáo của 46 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương đến thời điểm hiện tại và các tài liệu, báo cáo gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo căn cứ theo mức học phí tối thiểu theo quy định tại Nghị định số 81/2021/NĐ-CP và Nghị định số 97/2023/NĐ-CP của Chính phủ để ước tính nhu cầu kinh phí ngân sách nhà nước phải chi trả để thực hiện miễn học phí cho toàn bộ học sinh từ mầm non đến trung học phổ thông.
Theo đó, nhu cầu kinh phí ngân sách nhà nước phải chi trả để thực hiện chủ trương miễn học phí cho các đối tượng nêu trên là khoảng 30 nghìn tỷ đồng (nếu trừ ngân sách địa phương của các tỉnh/thành phố đã thực hiện miễn học phí thì ngân sách trung ương sẽ phải thực hiện ít hơn số này). Trên thực tế, mức ngân sách cần đảm bảo sẽ phụ thuộc vào mức học phí cụ thể của từng tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương theo thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định trên cơ sở quy định mức sàn, trần học phí quy định của Chính phủ.
Dự kiến tác động của chính sách khi được áp dụng
Học phí ảnh hưởng tới hầu hết các gia đình và là vấn đề dư luận xã hội quan tâm mỗi khi bắt đầu năm học mới. Việc mở rộng đối tượng miễn học phí ảnh hưởng đến cân đối ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, việc miễn học phí đối với học sinh cấp trung học phổ thông (lớp 10 đến lớp 12) có thể ảnh hưởng tới định hướng phân luồng học sinh sau trung học cơ sở trong việc lựa chọn học lên trung học phổ thông hay lựa chọn học nghề.
Tuy nhiên, nếu thực hiện chính sách miễn học phí cho toàn bộ trẻ em mầm non đến trung học phổ thông trên cả nước sẽ góp phần quan trọng làm tăng chất lượng giáo dục, được sự đồng thuận cao của xã hội, phù hợp với ưu việt của chế độ, chủ trương của Đảng, Nhà nước đối với giáo dục và phù hợp với xu thế chung của các nước phát triển.