Bộ Công Thương 'mách nước' doanh nghiệp xuất khẩu cà phê tiến sâu vào thị trường châu Phi
Để thâm nhập và mở rộng thị phần tại thị trường các nước châu Phi, các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam phải tìm hiểu kỹ về thị hiếu người tiêu dùng cũng như các quy định của từng quốc gia, đặc biệt là về tiêu chuẩn Halal….
Theo Thương vụ Việt Nam tại Algeria, hiện nay, cùng với chè, cà phê đã trở thành đồ uống nóng ngày càng được ưa chuộng của người dân Bắc Phi Ả rập. Tại một số quốc gia như Algeria, cà phê được xem là sản phẩm thiết yếu bên cạnh các loại thực phẩm khác như bánh mì, dầu ăn, đường, sữa. Algeria nhập khẩu khoảng 130.000 tấn cà phê hạt các loại mỗi năm, trong đó Việt Nam thường cung cấp trên 50% sản lượng.
Mặt khác, tại Bắc Phi, số lượng người nước ngoài, chủ yếu là châu Âu đến sinh sống và làm việc ngày một đông. Vì vậy, nhu cầu nhập khẩu cà phê tăng mạnh, nhất là khi các nước khu vực này không trồng được cà phê.
Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản của Việt Nam đã có mặt tại châu Phi, chủ yếu là các nước Bắc Phi từ nhiều năm nay. Năm 2019, Việt Nam đã xuất khẩu cà phê sang 13 quốc gia châu Phi với kim ngạch đạt 153 triệu USD. Các thị trường nhập khẩu chính là Algeria với 111 triệu USD, Ai Cập: 15,8 triệu USD, Morocco: 15,4 triệu USD, Tunisia: 4,9 triệu USD, Nam Phi: 4,5 triệu USD... Con số này còn khiêm tốn so với tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê bình quân hơn 3 tỷ USD/năm của Việt Nam ra toàn thế giới.
Phần lớn cà phê nhập khẩu vào Bắc Phi dưới dạng cà phê thô (cà phê chưa rang xay và chưa khử cafein). 80% cà phê nhập khẩu là cà phê robusta và 20% là cà phê arabica. Khi nhập khẩu về nước, các công ty rang xay sẽ trộn các loại cà phê theo tỷ lệ phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Ngoài ra, lý do các nước Hồi giáo chủ yếu nhập khẩu cà phê nhân xanh chưa rang xay (green bean) về tự chế biến là để bảo đảm tiêu chuẩn Halal và hưởng thuế nhập khẩu thấp hơn.
Nhìn chung, cà phê nhập khẩu vào Bắc Phi phải tuân thủ việc kiểm tra chất lượng và các quy định chặt chẽ, do một cơ quan chống gian lận và một phòng thí nghiệm đảm nhiệm, đây là rào cản đầu tiên trước khi hàng hóa vào được nội dịa của nước nhập khẩu. Các chuyên gia sẽ phân tích mẫu lấy từ các bao khác nhau để kiểm tra xem có đáp ứng được các tiêu chuẩn quy định hay không. Về mặt pháp lý, trong mẫu 300gr, trọng lượng nhân hỏng không được vượt quá 10%, nếu không hàng sẽ bị giữ lại tại cảng nhập khẩu. Mức thuế nhập khẩu trung bình là 25% đối với cà phê chưa rang xay và 70% đối với cà phê rang xay. Riêng tại Algeria, tổng thuế và phí nhập khẩu áp dụng đối với cà phê chưa rang xay lên tới 61% (Algeria chưa phải là thành viên của WTO).
Tại Bắc Phi, cà phê thô của Việt Nam phải cạnh tranh với cà phê đến từ các nước Colombia, Brazil, Guatemala, Indonesia, Ấn Độ, Bờ Biển Ngà, Cameroon, Uganda...
Tại thị trường châu Phi nói chung, việc tiêu thụ cà phê không đóng bao vẫn chiếm ưu thế do giá rẻ và các đòi hỏi chuẩn mực vệ sinh, chất lượng không cao. Tuy nhiên, thị trường cà phê đóng gói đang ngày càng trở nên cạnh tranh hơn và thu hút nhiều nhà rang xay trong và ngoài nước. Người dân nơi đây đang trở thành những người tiêu dùng sành điệu và ngày càng đòi hỏi mặt hàng có chất lượng cao, sử dụng tiện lợi.
Việc xuất khẩu cà phê hộp, cà phê hòa tan của Việt Nam vào các nước Bắc Phi cho đến nay vẫn còn hạn chế. Người tiêu dùng địa phương thường uống rất ngọt và đánh giá cà phê hòa tan nhập khẩu nói chung chưa có đủ độ đường, đặc biệt thường e ngại về vấn đề đảm bảo tiêu chuẩn Halal (liên quan đến các thành phần bổ sung như sữa bột). Đây là điều các doanh nghiệp lưu ý khi xuất khẩu cà phê thành phẩm vào thị trường này, nhất là khi đưa hàng vào hệ thống siêu thị.
Nhằm thúc đẩy xuất khẩu vào thị trường châu Phi, Bộ Công Thương đã và đang đang tích cực triển khai nhiều giải pháp, trong đó tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại tại một số thị trường tiềm năng như Bắc Phi, Nam Phi, Trung Đông... để nâng dần sản lượng cà phê chế biến xuất khẩu, từng bước tạo dựng nền tảng vững chắc cho các thương hiệu cà phê chế biến của Việt Nam.