Bỏ thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền cấp xã
Dự thảo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi) bỏ thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền cấp xã.
7 vấn đề đổi mới quan trọng, mang tính đột phá
Sáng 12/2, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khóa XV, Quốc hội nghe trình bày Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi).
![Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w700_r1/2025_02_12_35_51456554/4fb8f971ce3f27617e2e.jpg)
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh
Trình bày Tờ trình tóm tắt dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết, mục đích xây dựng, ban hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi) nhằm tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho việc xây dựng và vận hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, dễ tiếp cận, hiệu lực và hiệu quả, góp phần tháo gỡ “điểm nghẽn”, khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Thực hiện việc thể chế hóa chủ trương đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, dự thảo Luật bố cục gồm 8 chương, 72 điều. Đồng thời, dự thảo Luật tập trung 7 vấn đề đổi mới quan trọng, mang tính đột phá về quy trình xây dựng pháp luật như sau: Thứ nhất, tiếp tục đơn giản hóa hệ thống VBQPPL; tăng cường kiểm soát quyền lực; phân định rõ thẩm quyền lập pháp và lập quy.
Cụ thể, dự thảo Luật bỏ thẩm quyền ban hành VBQPPL của chính quyền cấp xã; bổ sung 1 hình thức nghị quyết của Chính phủ; thay đổi từ quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước sang thông tư.
Kế thừa Điều 5 Luật hiện hành, dự thảo Luật bổ sung một số nguyên tắc quan trọng như kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; bảo đảm chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc; kịp thời giải quyết vấn đề thực tiễn; bảo đảm quản lý nhà nước và khuyến khích sáng tạo, khơi thông mọi nguồn lực; quy định về xin ý kiến của Bộ Chính trị khi ban hành VBQPPL trong trường hợp đặc biệt, trách nhiệm xin ý kiến các cơ quan có thẩm quyền của Đảng...
Dự thảo Luật đã phân định rõ thẩm quyền lập pháp và lập quy theo hướng: Luật này chỉ quy định về trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành VBQPPL của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và một số chủ thể nhất định, giao Chính phủ quy định trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành các VBQPPL thuộc thẩm quyền của Chính phủ; sửa đổi, bổ sung khái niệm “quy phạm pháp luật”, “chính sách” làm cơ sở xác định thẩm quyền của các chủ thể trong lập pháp và lập quy; quy định Quốc hội ban hành luật để quy định các vấn đề thuộc thẩm quyền theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội.
Thứ hai, bổ sung quy định Chính phủ ban hành nghị quyết quy phạm tại Điều 14 để: Giải quyết các vấn đề cấp bách, quan trọng phát sinh từ thực tiễn và để áp dụng trong một thời gian nhất định, phạm vi cụ thể thuộc thẩm quyền của Chính phủ; tạm ngưng, điều chỉnh hiệu lực hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần nghị định của Chính phủ đáp ứng các yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện thí điểm một số chính sách chưa có pháp luật điều chỉnh thuộc thẩm quyền của Chính phủ hoặc khác với nghị định, nghị quyết hiện hành.
Thứ ba, đổi mới việc xây dựng Chương trình lập pháp của Quốc hội theo hướng xây dựng định hướng lập pháp nhiệm kỳ, chương trình lập pháp hàng năm của Quốc hội với tính chất linh hoạt cao; Ủy ban Thường vụ Quốc hội chủ trì, phối hợp xây dựng định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội để trình Bộ Chính trị phê duyệt.
Căn cứ định hướng lập pháp nhiệm kỳ hoặc yêu cầu giải quyết vấn đề phát sinh từ thực tiễn (nếu có), các cơ quan đề xuất các dự án vào Chương trình lập pháp hàng năm với hồ sơ đơn giản, gửi đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Thứ tư, đổi mới quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL: Quy định đổi mới quy trình xây dựng, ban hành VBQPPL của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo hướng: Tách bạch quy trình chính sách với việc lập chương trình lập pháp hàng năm; phân định rõ hơn quy trình chính sách và quy trình soạn thảo (cơ quan trình quyết định chính sách, Quốc hội quyết định dự thảo); thu hẹp phạm vi các trường hợp phải thực hiện quy trình chính sách; đơn giản hóa quy trình về tổng thể và tập trung thời gian, nguồn lực vào một số bước quan trọng để nâng cao chất lượng chính sách và dự thảo luật.
Đáng chú ý, bổ sung quy định Quốc hội, Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ có thể ban hành VBQPPL trong trường hợp đặc biệt khi được sự đồng ý của Bộ Chính trị đối với trường hợp khẩn cấp theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp hoặc sự cố, thảm họa theo quy định của pháp luật về phòng thủ dân sự hoặc sự kiện bất khả kháng hoặc các vấn đề cấp bách, quan trọng của đất nước.
Thứ năm, về trách nhiệm của các cơ quan trình dự án luật:Dự thảo Luật quy định cơ quan trình chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cơ quan thẩm tra và các cơ quan có liên quan trong việc nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội để chỉnh lý dự thảo luật.
Đồng thời, bổ sung các quy định nhằm phân định rõ vai trò, tăng cường cơ chế phối hợp giữa của cơ quan trình với cơ quan thẩm tra và Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong quá trình trình, thẩm tra, cho ý kiến, chỉnh lý, hoàn thiện dự án luật.
Thứ sáu, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan trong quá trình xây dựng, ban hành VBQPPL
Trên cơ sở Quy định số 69-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương, Quy định 178-QĐ/TW của Bộ Chính trị, kết luận của Bộ Chính trị, dự thảo Luật bổ sung các quy định về: Trách nhiệm xin ý kiến các cơ quan có thẩm quyền của Đảng trong xây dựng VBQPPL; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cũng như người đứng đầu trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong xây dựng và tổ chức thi hành VBQPPL.
Thứ bảy, hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật: Dự thảo Luật bổ sung quy định về các trường hợp, nguyên tắc, tiêu chí, thẩm quyền hướng dẫn áp dụng VBQPPL. Theo đó, cơ quan, người có thẩm quyền ban hành VBQPPL xem xét, hướng dẫn áp dụng đối với văn bản do mình ban hành trên cơ sở đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Việc hướng dẫn áp dụng VBQPPL không được đặt ra quy định mới và hình thức văn bản hướng dẫn là văn bản hành chính.
Đẩy nhanh tiến độ ban hành nhưng bảo đảm chất lượng của văn bản
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng nêu, Ủy ban Pháp luật tán thành việc sửa đổi toàn diện Luật Ban hành VBQPPL với các lý do và cơ sở chính trị, pháp lý, thực tiễn, quan điểm như được nêu trong Tờ trình của Chính phủ nhằm kịp thời thể chế hóa chủ trương của Đảng về đổi mới, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật; góp phần đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành VBQPPL, hoàn thiện thể chế đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
![Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w700_r1/2025_02_12_35_51456554/2ce5e12cd6623f3c6673.jpg)
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng
Về quy trình Quốc hội xem xét, thông qua dự thảo luật, nghị quyết (các điều 39, 40 và 41), Ủy ban Pháp luật cơ bản tán thành với định hướng các dự án luật, nghị quyết về nguyên tắc sẽ được xem xét, thông qua trong một kỳ họp nhằm đẩy nhanh tiến độ ban hành nhưng vẫn bảo đảm chất lượng của văn bản.
Theo đó, sau khi Quốc hội thảo luận, cơ quan trình dự án có trách nhiệm tiếp thu ý kiến để hoàn thiện dự thảo; cơ quan chủ trì thẩm tra tiếp tục có ý kiến phản biện, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến; trên cơ sở dự thảo đã được tiếp thu, hoàn thiện, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo việc trình Quốc hội xem xét, biểu quyết thông qua nếu đủ điều kiện.
Trường hợp dự thảo chưa được thông qua và Quốc hội quyết định cho lùi thời điểm thông qua để tiếp tục hoàn thiện, trình thông qua tại kỳ họp tiếp theo hoặc trình lại thì cơ quan trình dự án tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện; cơ quan chủ trì thẩm tra tiếp tục có ý kiến phản biện, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến và báo cáo Quốc hội quyết định việc thông qua.
Quy định như vậy đã thể hiện được trách nhiệm “đến cùng” của cơ quan trình dự án, trách nhiệm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với việc xem xét, cho ý kiến, chỉ đạo công tác tiếp thu, chỉnh lý dự thảo văn bản cũng như trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có ý kiến, phản biện đến cùng để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội xem xét, cho ý kiến, thông qua đối với dự thảo luật, nghị quyết.
Ủy ban Pháp luật thống nhất với cơ quan trình dự án về việc: Lược giảm hình thức VBQPPL của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã; bổ sung nghị quyết của Chính phủ là VBQPPL; thay đổi hình thức VBQPPL của Tổng Kiểm toán nhà nước từ quyết định sang thông tư.