Các nước Đông Nam Á có thể làm gì để tăng cường kết nối năng lượng trong khu vực?

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cho biết tính cấp thiết của việc tăng cường kết nối năng lượng ngày càng trở nên quan trọng khi khu vực bắt tay vào quá trình chuyển đổi năng lượng bền vững.

Các nước Đông Nam Á cần tăng cường kết nối năng lượng trong khu vực. Ảnh BloombergNEF

Các nước Đông Nam Á cần tăng cường kết nối năng lượng trong khu vực. Ảnh BloombergNEF

Bối cảnh năng lượng đa dạng của ASEAN được đặc trưng bởi sự phân bổ không đồng đều các nguồn năng lượng. Ví dụ, Lào tự hào có năng lực thủy điện đáng kể, tự khẳng định họ là nước xuất khẩu điện lớn trong khu vực. Trong khi đó, Indonesia sở hữu tiềm năng lên tới 2.900 GW công suất điện mặt trời.

Ngược lại, các quốc gia như Singapore, với nguồn tài nguyên thiên nhiên hạn chế, đang nổi lên như những trung tâm nhu cầu năng lượng đáng kể, phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng carbon thấp để khử carbon. Thái Lan, Philippines và Việt Nam đều đang chứng kiến sự cạn kiệt của các mỏ khí trong nước, thúc đẩy tăng cường đầu tư vào các terminal khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) do nhu cầu năng lượng dự kiến ngày càng tăng.

Gần đây, cộng đồng các nhà lãnh đạo doanh nghiệp trong khu vực ASEAN, được tổ chức bởi Diễn đàn Kinh tế Thế giới, đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của cơ sở hạ tầng điện, chẳng hạn như lưới điện, cơ sở hạ tầng khí (LNG) và các trạm sạc xe điện trong tài liệu “Những khát vọng chung”.

Củng cố kết nối các nguồn năng lượng carbon thấp trong khu vực có thể giúp giảm đáng kể chi phí hệ thống tổng thể và cải thiện an ninh năng lượng, từ đó giảm thiểu bộ ba bất khả thi liên quan đến năng lượng - thách thức trong việc cân bằng an ninh năng lượng, công bằng và bền vững môi trường.

“Tăng cường mạng lưới năng lượng khu vực là nhu cầu chiến lược để phát triển bền vững ở Đông Nam Á. Bằng cách tận dụng các nguồn năng lượng đa dạng - từ tiềm năng năng lượng mặt trời của Indonesia đến thủy điện của Lào và gió ngoài khơi của Việt Nam - ASEAN có thể xây dựng một khuôn khổ năng lượng tích hợp, linh hoạt. Điều này không chỉ cải thiện an ninh năng lượng mà còn thúc đẩy công bằng và bền vững môi trường trong khu vực”, Azis Armand, Giám đốc điều hành Tập đoàn Indika Energy, cho biết.

Kết nối năng lượng của ASEAN

ASEAN đã có những bước tiến trong việc thúc đẩy kết nối điện và khí đốt, mặc dù có mức độ thành công và thách thức khác nhau. Các dự án lưới điện khu vực như Dự án Tích hợp nguồn điện Lào - Thái Lan - Malaysia - Singapore (LTMS-PIP) và Dự án kết nối nguồn điện Borneo-Indonesia - Malaysia - Philippines (BIMP-PIP) là minh chứng cho những nỗ lực tăng cường kết nối điện.

Mặc dù đã có tiến bộ, nhưng hạn chế về tài chính vẫn là một trở ngại đáng kể. Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) ước tính rằng ASEAN sẽ cần khoảng 21 tỷ USD tổng mức đầu tư lưới điện hàng năm từ năm 2026 đến năm 2030.

Các vấn đề phức tạp khác bao gồm thiết bị lưới điện lỗi thời, sự cần thiết của quy tắc lưới điện được tiêu chuẩn hóa, sự phản đối của cộng đồng và những rào cản về cơ chế, chẳng hạn như đảm bảo tính liên tục của chính sách - một vấn đề thường gặp trên toàn khu vực.

Khí tự nhiên đóng vai trò then chốt trong việc củng cố an ninh năng lượng ở ASEAN, đặc biệt khi việc tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo ngày càng tăng và các nước đang tìm kiếm các giải pháp thay thế sạch hơn cho than.

Đông Nam Á đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc kết nối cung và cầu khí đốt trong khu vực, chủ yếu thông qua dự án Đường ống dẫn khí xuyên ASEAN (TAGP).

Trong những năm gần đây, LNG đã thu hút được sự chú ý nhờ các khoản đầu tư đáng kể vào cơ sở hạ tầng mới nổi ở Philippines, Thái Lan và Việt Nam; tổng công suất 41 triệu tấn mỗi năm của các terminal LNG được đề xuất hoặc đang xây dựng.

Bất chấp những tiến bộ này, ASEAN vẫn phải đối mặt với những thách thức đáng kể trong việc thiết lập một thị trường khí đốt thống nhất và khuyến khích các giao dịch LNG trong khu vực.

Trở ngại chính vẫn là yêu cầu đầu tư lớn liên quan đến tính chất vốn cao của cơ sở hạ tầng đường ống khí và phát triển các terminal LNG. Việc thiết lập các khung pháp lý trên toàn khu vực đóng vai trò hỗ trợ, chẳng hạn như khả năng tiếp cận mở và hài hòa hóa các tiêu chuẩn khí đốt, có thể phức tạp.

Cả khả năng kết nối điện và khí trong ASEAN đều phải đối mặt với một trở ngại chung: Thiếu cơ sở hạ tầng cần thiết. Vấn đề này đặc biệt thách thức vì hầu hết các nước ASEAN, vốn là nền kinh tế đang phát triển, có xu hướng ưu tiên đầu tư vào nhu cầu cấp thiết trong nước. Ngay cả khi các quốc gia ASEAN có khả năng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, sự chênh lệch vẫn có thể xảy ra khi các cộng đồng nông thôn và thu nhập thấp bị bỏ lại phía sau, do các khu vực thành thị và kinh tế thịnh vượng thường nhận được phần lớn số tiền.

Bài học từ châu Âu

Các quốc gia thành viên ASEAN có thể thực hiện những hành động gì để sớm đạt được thành công vào năm 2030, khi mà 9/10 quốc gia trong số họ đã cam kết đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050-2065?

Hành trình hướng tới gia tăng kết nối năng lượng không phải chỉ riêng ở ASEAN. Các tiền lệ toàn cầu, chẳng hạn như lưới điện đồng bộ của lục địa châu Âu mang lại lợi ích cho 24 quốc gia và 450 triệu người, mang lại những bài học quý giá cho khu vực.

Một yếu tố thúc đẩy quan trọng trong việc phát triển lưới điện châu Âu là chương trình Dự án vì lợi ích chung (PCI). Các dự án cơ sở hạ tầng xuyên biên giới quan trọng có trạng thái PCI được tiếp cận với hỗ trợ tài chính độc quyền và hưởng lợi từ các thủ tục cấp phép nhanh, từ đó thúc đẩy sự phát triển của các dự án.

Với nguồn lực hạn chế và tính cấp bách của việc đạt được các mục tiêu không phát thải ròng trong ASEAN, việc ưu tiên chung cho các dự án có tầm quan trọng trong khu vực mang lại tác động lớn nhất là rất quan trọng. Bằng cách áp dụng một chương trình tương tự ở Đông Nam Á, các quốc gia ASEAN có thể đẩy nhanh các nỗ lực kết nối năng lượng của họ một cách tối ưu và công bằng.

Ở cấp quốc gia, các nước ASEAN có thể giảm bớt những lo ngại về tính liên tục của chính sách và củng cố niềm tin của nhà đầu tư bằng cách ban hành luật về mục tiêu phát thải ròng bằng 0, tương tự như cách tiếp cận của Anh và Pháp.

Bằng cách ban hành những luật như vậy, các chính phủ hiện tại và tương lai sẽ có nghĩa vụ phải đáp ứng các mục tiêu này và tiến độ của họ phải chịu sự giám sát pháp lý. Cách tiếp cận này đảm bảo môi trường chính sách ổn định, khuyến khích đầu tư dài hạn vào quá trình chuyển đổi năng lượng.

Nh.Thạch

AFP

Nguồn PetroTimes: https://nangluongquocte.petrotimes.vn/cac-nuoc-dong-nam-a-co-the-lam-gi-de-tang-cuong-ket-noi-nang-luong-trong-khu-vuc-714669.html