Cách mạng tháng Tám năm 1945 tỏa sáng giá trị quyền con người, quyền công dân trong kỷ nguyên mới
Cách mạng tháng Tám diễn ra trong vòng nửa tháng (từ 14 đến 28/8/1945) giành thắng lợi trên phạm vi cả nước. Ngày 02 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người chủ nhân của quốc gia độc lập, quyền con người, quyền công dân được bảo đảm thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phát huy giá trị lịch sử vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội để quyền con người, quyền công dân tỏa sáng trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Các lực lượng vũ trang và người dân tập trung trước khu vực Quảng trường Nhà hát Lớn (Hà Nội) trong những ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 lịch sử. Ảnh: TTXVN
1. Cách mạng tháng Tám năm 1945 mở ra kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Từ ngày 13 đến ngày 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào. Hội nghị khẳng định cơ hội tốt cho ta giành độc lập dân tộc đã tới, quyết định lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương. Hội nghị cử ra Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí Trường Chinh phụ trách; đề ra đường lối đối nội, đối ngoại trong tình hình mới và kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương. Đêm 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh tổng khởi nghĩa.
Ngày 16/8/1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào. Đại hội nhiệt liệt tán thành chủ trương phát động tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh; quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ cách mạng lâm thời, do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Ngay sau Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta” [1, tr.596].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu đồng bào đã nhất tề đứng dậy giành chính quyền. Từ ngày 14/8/1945, các đơn vị giải phóng quân đã liên tiếp hạ nhiều đồn của quân Nhật thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái. Ngày 18/8/1945, nhân dân các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Phúc Yên, Thái Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Nam và Khánh Hòa giành chính quyền ở tỉnh lỵ.
Ngày 19/8/1945, khởi nghĩa ở Hà Nội thành công đã có ý nghĩa quyết định đối với cả nước, làm cho chính quyền tay sai Nhật ở các nơi bị tê liệt. Ngày 23/8/1945 khởi nghĩa thắng lợi ở Huế. Ngày 25/8/1945, khởi nghĩa thành công ở Sài Gòn. Ngày 28/8/1945, khởi nghĩa thành công ở Quảng Ngãi và các tỉnh còn lại ở Nam Bộ.
Ngày 02/9/1945, trong cuộc mít tinh lớn của quần chúng tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với nhân dân ta và nhân dân thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa độc lập, tự do và khẳng định quyết tâm sắt đá “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” [2, tr.3].
Cách mạng tháng Tám là một trong những trang sử vẻ vang nhất, là một trong những bước ngoặt vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc. Cách mạng tháng Tám đã đập tan ách phátxít trong 5 năm, đập tan ách thống trị của thực dân Pháp trong 87 năm, lật đổ chế độ phong kiến mấy nghìn năm, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập tự do, nhân dân lao động làm chủ. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, nhân dân ta từ người nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Đảng ta từ một Đảng hoạt động không hợp pháp trở thành một Đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước. Cách mạng tháng Tám đã sáng tạo ra những kinh nghiệm quý báu đóng góp vào kho tàng lý luận cách mạng dân tộc, dân chủ ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, tạo ra thế và lực mới cho hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ sau này. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám chứng minh: Trong thời đại ngày nay cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa do toàn dân nổi dậy, dưới sự lãnh đạo của một Đảng Mác - Lênin, có đường lối đúng đắn có thể giành thắng lợi.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chúng ta đã xây dựng một Nhà nước dân chủ, pháp quyền trên nguyên tắc: mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Có thể nói, hiếm có một cuộc cách mạng nào, đảng chính trị nào lại có đủ niềm tin vào con đường cách mạng của mình, ý thức về vai trò của pháp quyền và sự tôn trọng quyền của nhân dân như Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng không duy trì lâu dài cơ quan khởi nghĩa do Đảng nắm toàn quyền, mà đã quyết định thiết lập một chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” trong cả nước. Đảng ta chỉ giữ quyền lãnh đạo, không trực tiếp quản lý nhà nước. Về đối ngoại, khi đó quân Đồng minh do Mỹ, Anh, Pháp cầm đầu, sau khi đánh bại chủ nghĩa phát-xít, họ vẫn chủ trương duy trì và phân chia lại thuộc địa cũ, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, thắng lợi nhanh chóng của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự hoàn thiện của chế độ xã hội, Nhà nước ta, đã khiến cho lực lượng Đồng minh, chủ yếu là Anh, Pháp, Mỹ có mặt ở Đông Dương phải ngỡ ngàng, đành chấp nhận rút quân. Như vậy, chế độ xã hội mới, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không phải là thành tích “khai hóa” của “mẫu quốc”, cũng không phải là “tặng phẩm” của các nước Đồng minh như với một số quốc gia, mà là thành quả từ cuộc vận động cách mạng suốt 15 năm của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 - 1945) với các cao trào cách mạng 1930 - 1931, cao trào dân tộc dân chủ 1936 - 1939, cao trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945; đồng thời, là kết quả của chiến lược, sách lược cách mạng đúng đắn, quyết đoán của Đảng ta và sự hy sinh của chiến sĩ, đồng bào, đảng viên trong suốt quá trình cách mạng đầy khó khăn, gian khổ để thay đổi vận mệnh của dân tộc.
Như vậy, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Lực lượng của cách mạng là Nhân dân, quần chúng lao động bị áp bức. Nhiệm vụ của cách mạng là chống đế quốc và chống phong kiến. Xu thế phát triển tất yếu của cách mạng là tiến lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, Cách mạng Tháng Tám thực chất là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
2. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tạo cơ sở chính trị - pháp lý, tiền đề vững chắc để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và bảo đảm quyền con người, quyền công dân
Đi theo con đường cách mạng do Đảng ta lãnh đạo và Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn dắt, dựa trên những giá trị chính trị, tư tưởng của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dân tộc ta đã bảo vệ vững chắc thành quả của cuộc cách mạng đó. Chúng ta đã tiến hành hai cuộc kháng chiến, đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ (thực dân Pháp); thực dân mới (đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai); đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả - giúp hai nước: Lào, Cam-pu-chia giành độc lập, xây dựng xã hội mới.
Năm 1977, Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc và bắt đầu tham gia các điều ước quốc tế về quyền con người từ đầu thập kỷ 1980. Chỉ trong 03 năm đầu của thập kỷ những năm 80 (từ năm 1981 đến năm 1983), Việt Nam đã gia nhập và phê chuẩn 07 điều ước quốc tế quan trọng về quyền con người do Liên hợp quốc thông qua, trong đó bao gồm cả hai công ước cơ bản là Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 (ICESCR). Điều này thể hiện sự cởi mở và quyết tâm cao của nhà nước Việt Nam trong việc hòa nhập với cộng đồng quốc tế trên lĩnh vực quyền con người nhưng cũng đặt ra những yêu cầu với các cơ quan nhà nước trong các hoạt động pháp lý và thực tiễn về bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người.
Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới (năm 1986) đến nay, xuất phát từ chủ trương tôn trọng, bảo vệ và phát triển quyền con người, nhà nước Việt Nam đã và đang có nhiều nỗ lực để bảo đảm các quyền con người được tôn trọng và thực hiện. Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đánh dấu sự thay đổi tư duy về nhiều lĩnh vực của Đảng ta, trong đó có cả sự thay đổi tư duy về việc bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI khẳng định phương hướng “thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo đảm quyền công dân”, đồng thời lần đầu tiên khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; tất cả vì dân và do dân”[3, tr.226] được nêu lên một cách chính thức. Đường lối đổi mới được cụ thể hóa trong các chính sách ở nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Một trong những hoạt động trọng tâm của Nhà nước trong giai đoạn này là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người phù hợp với các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế trên lĩnh vực này, đặc biệt là các nguyên tắc và tiêu chuẩn nêu trong các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Nhiều quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong các bản hiến pháp của nước ta. Hiện nay, Hiến pháp năm 2013 đã trang trọng hiến định quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân.
Trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều thành tựu lớn trong công tác đấu tranh, bảo vệ quyền con người (nhân quyền), được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Nhìn lại những thành tựu quan trọng của Việt Nam trên lĩnh vực nhân quyền, có thể khẳng định, ở Việt Nam hiện nay các quyền con người được phát huy và bảo đảm vững chắc bởi thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, Nhân do dân, vì Nhân dân. Phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, thực hiện nghiêm túc cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, quyền con người được bảo đảm trên một số lĩnh vực cơ bản như sau:
Thứ nhất, bảo đảm về chính trị
Ở Việt Nam, bảo đảm và thúc đẩy quyền con người, mà trước hết là quyền dân tộc tự quyết - quyền được ghi nhận tại Điều 1 của Công ước về các quyền dân sự chính trị (ICCPR), chính là mục tiêu và thành quả quá trình đấu tranh, hy sinh gian khổ của nhiều thế hệ người dân Việt Nam. Do đó, để hiện thực hóa quyền con người, trước hết đất nước phải được độc lập, chủ quyền quốc gia phải được tôn trọng. Cho nên, để giành quyền tự do cho mỗi người, trước tiên phải giành quyền tự do cho cả dân tộc, đúng như tinh thần của Tuyên ngôn độc lập năm 1945 đã khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”[4, tr.4].
Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà Việt Nam tiến hành suốt 40 năm qua, con người (nhân dân) luôn được Đảng, Nhà nước ta đặt ở vị trí trung tâm, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã ban hành một số chính sách riêng về lĩnh vực quyền con người như: Chỉ thị số 12/CT/TW ngày 12/7/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về vấn đề quyền con người và quan điểm của Đảng ta; Chỉ thị số 41/2004/CT –TTg ngày 02/02/2004 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác bảo vệ, đấu tranh về nhân quyền trong tình hình mới; Chỉ thị số 44CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác nhân quyền trong tình hình mới. Rõ ràng, quan điểm, cách tiếp cận quyền con người đã thấm sâu vào các văn kiện, nghị quyết được thông qua tại Đại hội XIII và các Hội nghị Trung ương khóa XIII đều bảo đảm tính thống nhất và tính hệ thống trong việc triển khai thực hiện bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay. Đảng ta luôn nhấn mạnh: “lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước; Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân” [5, tr.39].
Như vậy, bảo đảm về chính trị trong hoạt động bảo đảm quyền con người được thể hiện thông qua phương hướng: phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân. Đồng thời, bảo đảm quyền con người góp phần thúc đẩy và duy trì ổn định chính trị với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Thứ hai, bảo đảm về kinh tế
Khi dịch Covid-19 bùng phát, trở thành đại dịch toàn cầu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, thì việc thụ hưởng các quyền cơ bản của con người bị tác động mạnh, nhất là quyền được sống, bảo đảm sức khỏe, v.v. Song với tinh thần: “Chống dịch như chống giặc”, “Không để ai bị bỏ lại phía sau”, Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã nhanh chóng đưa ra các chính sách, biện pháp đồng bộ, hiệu quả, với ưu tiên hàng đầu là kiểm soát dịch bệnh nhằm bảo vệ sức khỏe của người dân; duy trì và phục hồi sản xuất, kinh doanh, bảo đảm việc làm, an sinh xã hội và đời sống của người dân. Nhờ đó, tránh được sự tàn phá khủng khiếp do dịch bệnh gây ra, Việt Nam trở thành điểm sáng của thế giới trong phòng, chống dịch Covid-19.
Với những số liệu thống kê cho thấy: tính đến hết năm 2024 tỉ lệ nghèo theo chuẩn mới ở Việt Nam chỉ còn khoảng 1%, tỉ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống 1, 93% năm 2024; chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2024 từ vị trí 115 lên vị trí 107/193 quốc gia, tăng 8 bậc so với kỳ trước; chỉ số hạnh phúc năm 2024 của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143 quốc gia; chỉ số bình đẳng giới của Việt Nam tăng từ 87 năm 2021 lên thứ 72/146 năm 2023; chỉ số phát triển bền vững (SDGs) của Việt Nam năm 2024 tăng 01 bậc so với năm 2023, xếp thứ 54/166 quốc gia [6].
Thứ ba, bảo đảm về pháp luật
Bảo đảm về pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để các quyền con người được thực hiện, do vậy, các tiêu chuẩn và nguyên tắc về quyền con người đã được thể hiện trong Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người khi được pháp luật ghi nhận trở thành ý chí của toàn dân, buộc xã hội phải phục tùng và Nhà nước bảo vệ.
Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia ký kết, nhất quán quan điểm về bảo đảm và thúc đẩy quyền con người đã được Đảng ta đề ra tại các đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với xã hội”[7, t.2, tr.324].
Hiến pháp là đạo luật cơ bản, giữ vai trò quyết định khung khổ và toàn bộ cấu trúc của hệ thống pháp luật quốc gia. Hiến pháp năm 2013 chính là chế định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, nhận thức mới đầy đủ, sâu sắc hơn trong việc thể chế hóa quan điểm của Đảng về nhân tố con người, con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam đã đưa cách tiếp cận của thế giới về nhân quyền vào chương II: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Việc thay đổi vị trí của chương từ chương V trong Hiến pháp năm 1992 lên chương II trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013 và bổ sung chế định “Quyền con người” vào tên chương không đơn thuần chỉ là sự chuyển dịch về mặt cơ học, một sự hoán vị về bố cục, mà là một sự thay đổi về nhận thức. Hiến pháp năm 2013 có thể được coi là bản hiến chương về quyền con người ở Việt Nam vì đã hàm chứa đầy đủ toàn diện một hệ thống các quyền con người hiện đại, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Chỉ tính từ khi Hiến pháp năm 2013 được thông qua đến nay, công tác cải cách pháp luật, hoàn thiện thể chế, chính sách đã được đẩy mạnh với hơn 100 luật, bộ luật có liên quan đến quyền con người được ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung. Theo ước tính của các chuyên gia pháp lý, các nhà khoa học Việt Nam có khoảng 13.000 các văn bản quy phạm pháp luật, điều đó tạo cơ sơ pháp lý cho bảo đảm quyền con người ngày càng tốt hơn.
Thứ tư, bảo đảm về văn hóa - xã hội
Vấn đề bảo đảm quyền con người ở Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng, bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền chính trị, dân sự, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của người dân; quyền của các nhóm yếu thế như người cao tuổi, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người có tín ngưỡng tôn giáo. Tất cả người dân đều được khuyến khích tham gia “học tập suốt đời” trên nền giáo dục quốc dân ngày càng phát triển và một xã hội học tập, trẻ em được nuôi dưỡng, tạo mọi điều kiện đến trưởng thành tốt nhất. Người cao tuổi và công tác đền ơn, đáp nghĩa thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng ngày càng được quan tâm, chăm sóc. Người yếu thế, người có hoàn cảnh khó khăn, gặp thiên tai, bão lũ được hỗ trợ, người nghèo được tạo điều kiện để tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản và thoát nghèo bền vững, bảo đảm công bằng, an sinh xã hội trên tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Theo xếp hạng của Liên hợp quốc, chỉ số hạnh phúc năm 2024 của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143; Chỉ số phát triển bền vững (SDGs) của Việt Nam năm 2024 tăng 01 bậc so với năm 2023, xếp thứ 54/166. Điều đó thể hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam là nhất quán, rõ ràng, ngày càng được hoàn thiện, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, mang lại kết quả cụ thể, được cộng đồng quốc tế ghi nhận.
3. Phát huy giá trị quyền con người, quyền công dân trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
Một là, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội
Đảng ta chủ trương: “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”[8, t.2, tr.324]; do vậy, để các quyền con người được bảo đảm, tiền đề về kinh tế giữ vai trò đặc biệt quan trọng nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu thiết yếu của cuộc sống và thụ hưởng các giá trị phát triển. Bên cạnh đó, chú trọng các tiêu chuẩn về xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để con người phát triển, cá nhân đóng góp thiết thực vào sự thịnh vượng của đất nước.
Đồng thời, xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, văn hóa xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người theo phương hướng bao trùm, công bằng, bền vững, lấy con người và bảo đảm quyền con người là trung tâm; ưu tiên các đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế và đối tượng trong khu vực phi chính thức, “không để ai bị bỏ lại phía sau”, tất cả mọi người có cơ hội phát triển toàn diện trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Hai là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong bảo vệ, bảo đảm quyền con người
Để quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về quyền con người và bảo đảm quyền con người được thực hiện trong thực tiễn cuộc sống, trước hết các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức nhân dân có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện tốt cương lĩnh chính trị, nghị quyết, chỉ thị của Đảng về quyền con người. Cần nhận thức ý nghĩa tầm quan trọng của bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy quyền con người, bảo vệ tốt quyền và tự do của con người là cơ sở củng cố lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; góp phần hiệu quả bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc tình hình quyền con người ở Việt Nam; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để hội nhập và phát triển đất nước.
Ba là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
Thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không chỉ thể hiện ở mục tiêu bảo đảm quyền lực của Nhân dân, Nhân do dân, Nhân vì dân, mà còn phải được thể chế hóa thành phương tiện, công cụ để đạt được mục tiêu đó một cách hiệu lực, hiệu quả trong thực tế, do vậy, xây dựng Nhà nước pháp quyền và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, cần quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 27 - NQ/TW, ngày 09/11/2022, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”: “Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân” [9, tr.40 -41]. Chương trình xây dựng luật của Quốc hội cần có sự ưu tiên cho việc ban hành mới, sửa đổi, bổ sung những văn bản pháp luật liên quan đến điều ước quốc tế về quyền con người, đồng thời tinh gọn bộ máy nhà nước luôn phải bảo đảm quyền con người, lấy con người là trung tâm của mọi chính sách phát triển. Bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người luôn là cam kết chính trị - pháp lý của Việt Nam. Đồng thời, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định quyết tâm của cả hệ thống chính trị: “Đến năm 2045, Việt Nam có hệ thống pháp luật chất lượng cao, hiện đại, tiệm cận chuẩn mực, thông lệ quốc tế tiên tiến và phù hợp với thực tiễn đất nước, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội; quản trị quốc gia hiện đại với bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả” [10].
Bốn là, tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và nâng cao hiệu quả đối thoại, đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người
Nhà nước Việt Nam cần chủ động hợp tác có hiệu quả với các cơ chế nhân quyền của Liên hợp quốc và ASEAN. Nâng cao tính chủ động của các phương tiện thông tin đại chúng, bảo đảm sự đa dạng, phong phú, chính xác, đúng đắn của các thông tin về quyền con người. Nâng cao chất lượng luận cứ đối thoại, phản bác với các luận điểm chỉ trích, phê phán không đúng đối với Việt Nam trong lĩnh vực nhân quyền nhằm tranh thủ sự thấu hiểu và ủng hộ của cộng đồng quốc tế cũng như người Việt Nam định cư ở nước ngoài với thành quả và giải pháp về vấn đề quyền con người ở Việt Nam. Thực hiện phương châm: trong đối thoại cũng có chủ động đấu tranh và ngược lại. Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ và thường xuyên giữa các cơ quan có trách nhiệm về đối thoại, đấu tranh trong lĩnh vực quyền con người; xây dựng cơ chế đối thoại tích cực, ổn định, lâu dài với các đối tác chủ yếu./.
Tài liệu tham khảo
[1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 596.
[2], [3], [4]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 3.
[5], [7], [8].Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2022, tr.39.
[6]. Báo Chính phủ ngày 11/12/2024.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2022, tr.40 - 41.
[10].Tổng Bí thư Tô Lâm, Đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình, Báo Nhân dân, ngày 05/5/2025.
(*1). Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(*2). Trường Sĩ quan Lục quân 1, Bộ Quốc phòng