Campuchia du ký - Bài 1: Hành trình trở lại Seam Reap
Chúng tôi vào đất Campuchia từ Lào. Buổi trưa nắng như đổ lửa. Đoàn rời Pakse từ sớm nhưng vì rẽ vào thăm thác Khone Phapheng trên đường nên buổi trưa mới đến biên giới.

Biểu tượng thành phố Stung Treng.
Chúng tôi qua cửa khẩu Nong Nokkhien (Lào) của tỉnh Champasak, vào địa giới tỉnh Stung Treng qua cửa khẩu Trapeang Kriel. Các thủ tục nhập cảnh người và xe đều ổn thỏa. Cửa khẩu khá vắng người. Anh lính biên phòng Campuchia khi nghe chúng tôi trình bày là các nhà báo, nhà văn đi tour vòng quanh Đông Dương nở một nụ cười thân thiện. Chắc ít có những người trên dưới 70 tuổi đi xe tự lái qua đây. Các thủ tục đổi tiền, mua sim điện thoại mới hơi mất thời gian. Người bán sim phải chụp hộ chiếu và ảnh chân dung người mua trước khi giao thẻ. Giá sim chưa đến 10 USD cho một tuần sử dụng.
Từ cửa khẩu về thành phố Seam Reap gần ki lô mét. Đi đường dài, đến vùng đất mới nên cần tính đến mọi tình huống có thể xảy ra. Chẳng hạn, chiếc xe Vitara chúng tôi đi là độc nhất vô nhị ở xứ này, nếu có trục trặc gì cần sửa chữa thì rất phức tạp. Dù vậy, chúng tôi vẫn dừng ở những nơi cần thăm trên đường.
Đường về Stung Treng vừa được nâng cấp khá tốt. Cảnh sắc vùng Đông Bắc rất đặc trưng ở đây. Những khu rừng rộng. Mùa khô, các con sông Tonle Kong, Tonle San và Mekong đều cạn nước. Stung Treng giáp Lào ở phía bắc, giáp các tỉnh Ratanakiri ở phía đông, Preah Vihear ở phía tây và Kratie và Kompong Thom ở phía nam.
Thị xã Stung Treng khá nhỏ. Những ngôi chùa cổ xen giữa những nhà thấp tầng, vườn cây. Ngay trên lối vào thành phố là một ngọn tháp lớn và một bức tượng Phật có mái che. Biểu trưng của thành phố hình tròn dựng trên bệ, có chữ Stung Treng bằng tiếng Anh và Campuchia.
Trong số chúng tôi, nhà văn Trần Chiến đã đến đây cuối năm 1978 khi cùng các chiến sĩ tình nguyện Quân khu 5 giúp bạn lần đổi chế độ Pol Pot. Khi ấy, Trần Chiến là biên tập viên trẻ của nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, đi thực tế tại mặt trận.
Khi chúng tôi vào thị xã, Trần Chiến gần như không nhận những nét quen thuộc sau gần nửa thế kỷ. Đã có quá nhiều biến đổi trên mảnh đất này. Ký ức của anh vẫn sống với hình ảnh những người lính, những trận đánh, những đêm hành quân. Một vài hình ảnh về thị xã khi ấy thì đã rất xa xôi.
Còn với tôi, điều duy nhất tôi nhớ về Stung Treng chính là biểu trưng của thành phố khi xem ảnh của đồng nghiệp trong đoàn chuyên gia Thông tấn xã ở Campuchia. Đầu năm 1979, các nhà báo Lê Sơn, Tiến Dũng cùng phóng viên Suca hãng thông tấn SPK đã lên đây, chụp ảnh tại nơi có tấm biển này. Chuyến đi ấy, các anh đã bị phục kích trên đường về Phnom Penh, nhưng may mắn trở về an toàn.
Sau bữa trưa, chúng tôi rời Stung Treng, qua tỉnh Preah Vihear để về Seam Reap. Preah Vihear nổi tiếng với khu đền cổ ở giáp biên giới với Thái Lan, là ngôi đền được đưa vào danh mục Di sản Thế giới của UNESCO. Được biết, ngôi đền được bắt đầu xây dựng vào đầu thế kỷ IX để thờ thần Shiva. Các di vật được tìm thấy cho thấy điền Preah Vihear là khu định cư quan trọng của Đế quốc Khmer trong thế kỷ XII. Với hành trình của mình lần này, dù rất tiếc, chúng tôi không có điều kiện đến thăm ngôi đền đó.

Làng chài bên Biển Hồ.
Trên đường đến Seam Reap, khi cảnh sắc của một vùng đất cổ lưới qua cửa xe, ký ức một thời trở về trong tôi. Tôi có nhiều kỷ niệm trên mảnh đất này. Giữa tháng 1/1979, cùng một số đồng nghiệp, tôi đã có mặt trong đội hình Quân đoàn 3 các chiến sĩ tình nguyện Việt Nam từ Kongpongcham đang tiến về Seam Reap. Nhiệm vụ của nhóm chúng tôi trong chuyến đi ấy khá đặc biệt: Thông tin về việc các chiến sĩ tình nguyện Việt Nam tìm thấy vợ và con gái của ngài Chia Xim, Phó Chủ tịch Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia, và cuộc gặp lại người thân của ngài Chia Xim. Vì vậy, tôi không đến Seam Reap mà trở về Phnom Penh ngay trên chuyến bay cùng thiếu tướng Kim Tuấn, Tư lệnh Quân đoàn 3. Sau chuyến đi ấy, khi trở lại Quân đoàn, tướng Kim Tuấn đã hy sinh trên đường hành quân cùng các đồng đội của mình về Seam Reap.
Mùa khô năm 1980, sau một hành trình dài từ Phom Penh lên Bát Tam Bang, qua vùng biên giới Sisophon, tôi mới đến Seam Reap. Một chuyến đi dài ngày và khá nguy hiểm cùng các nhà báo Lê Khắc Tịnh, điện báo viên Hữu Thành và lái xe Bùi Văn Trị. Ngày ấy Seam Reap rất vắng vẻ. Cuộc chiến tiêu diệt tàn quân Pol Pot còn diễn ra gay go, ác liệt. Chúng tôi đã ở lại Siêm Riệp khá dài ngày, sống cùng với đoàn chuyên gia Việt Nam giúp bạn, đi các nơi trong tỉnh để viết về cuộc sống, con người và quá trình hồi sinh vùng đất này.

Ở một ngôi chùa bên Biển Hồ.
Tôi đến Chông Khniec, một làng chài trên Biển Hồ. Dân làng dưới thời Pol Pot phiêu bạt khắp nơi, từ vùng núi Culên, Sisophon, Pursat... lần lượt tìm đường trở về. Tuy rằng trong số gần 4.000 người ra đi, hơn 1.000 người vĩnh viễn không trở lại. Một đơn vị bộ đội Việt Nam đến giải phóng cho họ, cử ba chiến sĩ đưa bà con về quê hương. Đoàn người đi ngang qua Biển Hồ đang mùa cạn. Ba chiến sĩ Việt Nam mặc quần áo dân thường, mang súng dẫn đầu đoàn người rách rưới, đi suốt mấy ngày đêm mới về đến Chông Khơniếc. Đêm đầu tiên trở về, dân làng không ngủ, mở hội Rum Vuông đến sáng.
Tôi không quên lần đầu thăm Angkor. Khi ấy, tôi đi cùng những người lính Việt Nam, hai bên thành xe Jeep là hai khẩu B40 sẵn sàng nhả đạn nếu gặp lính Pol Pot phục kích. Những khu thành cổ đẹp đến nao lòng vẫn còn vương mùi tử khí trong không gian. Những người lính Việt Nam làm nhiệm vụ bảo vệ khu đền chính cho chúng tôi biết, những trận đánh với lính áo đen vẫn diễn ra thường xuyên.
Trong đoàn chúng tôi có một cô phiên dịch người Campuchia tên là Phonni đi cùng. Tôi vẫn nhớ dáng người nhỏ nhắn, gương mặt dịu dàng của cô. Gia đình Phonni trước đây sống chung cùng với bà con người Việt, nên cô biết tiếng Việt. Khi quân Pol Pot tràn về, cả gia đình cô ly tán, không biết bố mẹ và các anh chị em còn sống hay đã chết.
Buổi trưa, khi đang đi cùng chúng tôi cô dừng lại, đi đâu đó một mình, lúc sau mới quay lại, hai mắt còn mọng nước. Cô đã khóc rất nhiều và không muốn cho chúng tôi nhìn thấy. Phonni nói:
- Em vào đây bỗng nhớ cha mẹ quá các anh ạ. Ngày trước, nhà em ở thị xã Seam Reap, dịp cuối tuần, em theo bố mẹ vào đây, có đông anh chị em bạn bè vui lắm. Thế mà bây giờ, gia đình em không biết ai còn ai mất nữa.
Tôi có ghi lại câu chuyện về Phonni trong một bài báo nhỏ và một bài thơ ngắn về số phận của một cô gái Campuchia ngày ấy.
Em vào đây nhớ lắm anh ơi
Nhớ cha mẹ, nhớ gia đình lắm
Angkor này với em bao kỷ niệm
Bao buồn vui những năm tháng không quên...

Cây cầu 1.000 năm tuổi ở ngoại ô Seam Reap.
Năm 1983, tôi trở lại Seam Reap cùng nhà nhiếp ảnh Vũ Khánh, sau khi chứng kiến đợt rút quân tình nguyện Việt Nam đầu tiên ở Phnom Penh. Hai anh em đã có những buổi sáng đi trên Biển Hồ rất đẹp . Tôi có dịp trở lại Chông Khơniếc, làng chài nhỏ sau hơn ba năm. Một buổi sáng trong lành, bình yên. Vẫn những nhà bè lô nhô giăng hàng trên sóng, thuyền đánh cá tấp nập đi về, bến nước đầu làng đông vui... Tôi nhớ trong bữa cơm thân mật với món cá ke nổi tiếng của Biển Hồ, nâng chén rượu mừng, anh Phom Lai, trưởng thôn đã say sưa nói với chúng tôi những dự định cho ngày mai. Anh nói về sự giàu có của Biển Hồ với hơn 200 loài cá, về những lô cá giữa vụ, người ta phải lách những cây sào qua những tầng cá ken nhau. Anh nói về sự hùng vĩ của thiên nhiên nơi đây khi mùa nước cạn, xe bò có thể đi ngang lòng hồ. Mùa mưa đến, nước dâng ngang ngọn cây trên con đường lớn chạy qua làng.
Lần ấy, tôi cũng thăm lại Angkor Wat, chiêm ngưỡng lại vẻ đẹp vĩnh cửu của những công trình kiến trúc đã làm rạng danh xứ sở này. Ở sân bay Seam Reap, chúng tôi gặp các thương binh Việt Nam được đưa về Thành phố Hồ Chí Minh. Họ là thương binh nặng từ các mặt trận phía bắc, được ưu tiên chuyển về bằng đường hàng không. Nhìn hàng trăm thương binh, người nằm trên cáng, người đang hôn mê, những người bị nặng thì được khiêng, cáng hoặc bế lên máy bay, tôi thực sự bị ám ảnh. Một bác sĩ quân y đi cùng nói cho biết, tuần nào cũng vài chuyến đón thương binh thế này. Máu của người Việt Nam khi ấy vẫn tiếp tục đổ trên mảnh đất này.
Tôi trở lại Seam Reap lần thứ ba vào năm 2008 khi dẫn đáo đoàn đại biểu TTXVN thăm và làm việc với Thông tấn xã Campuchia AKP. Cùng với nhà báo Trần Chí Hùng, Trưởng phân xã TTXVN tại Phnom Penh và nhà báo Chăn Duon, Phó Tổng giám đốc AKP, chúng tôi đã có một chuyến đi bằng đường bộ từ Phnom Penh lên Seam Reap khi ấy đã là một trung tâm du lịch lớn. Nhiều chuyến bay từ các nước đến thẳng đây. Angkor tấp nập khách.

Chợ đêm Seam Reap.
Lần thứ tư này, tôi trở lại Seam Reap với tư cách một khách du lịch. Nhà báo Ngô Hà Thái đã khéo tìm được khách sạn Naga Angkor ở ngay trung tâm, liền bên khu phố chính, giá phòng hợp lý, đủ tiện nghi và có chỗ để xe ô tô.
Seam Reap ngày nay rất đông du khách, bởi vì Angkor là một trong những điểm đến hàng đầu của khu vực và thế giới. Những con đường trên khu phố chính chật chội và náo nhiệt. Nhiều khách sạn lớn được xây dựng. Các quán ăn, cửa hiệu đông khách với đủ mọi màu da, ngôn ngữ.
Buổi tối đầu tiên, chúng tôi hòa vài dòng người trên khu chợ đêm đông đặc. Tại một quán ăn nhỏ trên phố Sivutha Boulevard, nơi chúng tôi ăn bữa tối, cô chủ quán tình cờ cũng có tên là Phonni, cái tên gợi cho tôi kỷ niệm của 45 năm trước. Cô chủ quán sinh đúng năm 1980, năm tôi đến đây lần đầu. Cô nghe và hiểu tiếng Anh, rất ngạc nhiên khi biết tôi đã từng đến Seam Reap 45 năm trước. Phonni có hai con gái, công việc làm ăn ổn định, vì khách du lịch sau đại dịch COVID-19 đến đây ngày một đông hơn.
Sau bữa ăn, chúng tôi thăm khu bán hàng lưu niệm đông khách bên sông. Du khách có thể mua hàng dệt, đồ thủ công mỹ nghệ, đồ lưu niệm ở đâu với giá khá rẻ. Dãy phố dọc bờ sông chính rộn ràng tiếng nhạc, lấp lánh ánh đèn màu. Tôi chợt nhớ lại quãng cảnh thành phố tiêu điều xơ xác khi xưa. Savuon, một phụ nữ trẻ khi bán cho tôi mấy chiếc áo phông có hình tháp Angkor, cho biết, cô cũng sinh năm 1980. Có một lớp người sinh ra ở thành phố này và trên đất nước Campuchia vào thời điểm ấy, trong cuộc hồi sinh từ hoang tàn chết chóc.

Bình minh ở Angkor Wat.
Sáng hôm sau, chúng tôi dậy sớm để vào Angkor. Cần đi sớm cho đỡ nắng và đông khách. Được biết, lượng du khách đến đến đây từ đầu năm đã gần nửa triệu người, tăng nhiều hơn trước. Việc bán vé ở đây được tổ chức tốt. Hầu hết khách đi theo đoàn đã mua vé qua mạng, chỉ có khách lẻ mua vé tại chỗ. Ảnh từng người được chụp và in trên vé. Giá vé là 37 USD/người, mức giá cho thấy sức hấp dẫn của Angkor với du khách. Các dịch vụ hướng dẫn, vận chuyển khá tiện lợi nhưng không bắt buộc. Không ít khách phương Tây tự đi bộ để có trải nghiệm riêng của mình.
Chúng tôi đi trên con đường lớn có những hàng tượng hai bên để vào khu đền chính trong dòng người... Với cả ngàn ngôi đền lớn nhỏ, quần thể Angkor là một di sản tuyệt vời, qua những thăng trầm của lịch sử càng thêm có sức thu hút. Được xây dựng vào thế kỷ XII, những công trình ở đây không chỉ là những kiệt tác kiến trúc mà còn là biểu tượng tâm linh và văn hóa. Trong ánh nắng ban mai, những ngọn tháp ở Angkor Wat hiện lên vẻ đẹp tráng lệ. Tôi đã tìm đến hồ nước bên trái khu đền, nơi có thể nhìn đủ 5 ngọn tháp để chụp một kiểu ảnh. Năm 1980, lần đầu đến Angkor, tôi cũng đã chụp tại địa điểm này. Vẫn không gian ấy nhưng 45 năm đã trôi qua.

Nhà báo Trần Mai Hưởng tại nơi từng có mặt 45 năm trước.
Khu vực Angkor Thom vẫn còn những bức tượng bị chặt đầu từ thời Pol Pot. Ran, anh bảo vệ làm việc ở khu đền này, giúp chúng tôi tìm những góc đẹp nhất để chụp thần Bayon bốn mặt. Laria, cô sinh viên trẻ đến từ Kazackhxtan chia sẻ với chúng tôi niềm vui của cô khi cùng các bạn đến Angkor. Ở đền Ta Brohm, Laria và các du khách xếp hàng để chụp những cây tùng, cây đa đại thụ có bộ rễ ôm lấy các tòa tháp cổ tạo nên những hình ảnh độc đáo... Những hình ảnh ấy ở Ta Prohm cũng được chọn làm bối cảnh quay bộ phim "Bí mật ngôi mộ cổ" (Lara Croft: Tomb Raider) , bộ phim có sự tham gia của Angelina Jolie trong vai Lara Croft. Khi tôi nói rằng tôi đã từng có mặt ở đây cùng những người tình nguyện Việt Nam giúp người dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, Larria rất ngạc nhiên. Đối với cô, thời điểm ấy trước khi cô chào đời rất lâu.

Angkor Wat.

Tượng thần Bayon.
Rời Angkor sau gần một ngày đi giữa những đền đài cung điện, tôi lại nhớ về nhớ đến những người lính Việt Nam với súng B40, AK, dùng xoong nồi quân dụng nấu ăn, bám trụ để canh giữ khu đền này tôi đã gặp lần đầu đến đây. Họ sẵn sàng hy sinh tính mạng của mình gìn giữ Angkor giữa bao hiểm nguy rình rập. Nhiều điều đã xảy ra trên mảnh đất này những người khách du lịch hôm nay không còn nhìn thấy. Những suy nghĩ ấy, tôi cũng đã chia sẻ trong bài thơ Điều Không Nhìn Thấy:
ĐIỀU KHÔNG NHÌN THẤY
(Gửi một người bạn đi du lịch Angkor)
Em chiêm ngưỡng cả ngàn đền đài cung điện
Những vẻ đẹp vĩnh hằng thách thức thời gian
Em sẽ không gặp điều anh từng thấy
Angkor tiêu điều xơ xác tan hoang
Em dạo bước những nẻo đường lát đá
Cùng bạn bè trong buổi sáng bình yên
Sẽ không ai còn phập phồng lo sợ
Sau mỗi bức tượng kia nhả đạn lính áo đen
Em gặp thần Bay On bốn mặt
Nụ cười trên môi đón đợi con người
Em đâu biết dưới chân tượng ấy
Trận đánh năm xưa máu thẫm đất này
Những vạt rừng hoa Nacrin đang nở
Thốt nốt hương thơm đến nao lòng
Lại là nơi từng nồng mùi xác chết
Lính Pol Pot giết người vô tội hằng đêm
Em sẽ không bao giờ còn nghe tiếng
Cô gái Pho-ni nghẹn ngào nước mắt rơi
"Sao bộ đội Việt Nam không sớm hơn chút nữa
Cả phum em khỏi chết bao người ..."
Bạn bè anh ngã xuống mùa khô ấy
Hồn vẫn đâu đây giữa những đền đài
Máu họ đổ để Angkor sống lại
Điệu Saricakeo vang giữa đất trời
Rất nhiều điều đang chìm vào dĩ vãng
Năm tháng trôi trên thành quách bao đời
Xin hãy nhớ những gì không còn thấy
Những tâm tư đá cũng nghẹn lời.