Cần chính sách cho từng nhóm doanh nghiệp
Theo TS. NGUYỄN SĨ DŨNG, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, khi xác định kinh tế tư nhân (KTTN) là động lực cho tăng trưởng, chúng ta phải có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích các loại hình DN, đặc biệt là DN dân tộc.

Cần phải có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích các loại hình DN để tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế
PHÓNG VIÊN: - Ông đánh giá thế nào về các chính sách hiện nay đối với KTTN?
TS. NGUYỄN SĨ DŨNG: - Hiện nay, các chính sách của Nhà nước đối với DN lớn và DN nhỏ và vừa có sự khác biệt rõ rệt, phản ánh đặc điểm và nhu cầu riêng của từng nhóm. Với DN lớn, chính sách thường tập trung vào việc tạo điều kiện thuận lợi để họ mở rộng quy mô, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế, phát huy vai trò dẫn dắt trong các ngành kinh tế trọng điểm. Những hỗ trợ này có thể bao gồm ưu đãi về đầu tư, thuế, tiếp cận nguồn vốn lớn và tham gia các dự án lớn của quốc gia.
Ngược lại, đối với DN nhỏ và vừa, chính sách thường nhấn mạnh việc hỗ trợ khởi nghiệp, cải thiện khả năng tiếp cận vốn, giảm chi phí kinh doanh, và cung cấp các chương trình đào tạo, tư vấn để nâng cao năng lực quản lý. Tuy nhiên, các DN nhỏ và vừa thường gặp khó khăn hơn trong việc tận dụng các chính sách hỗ trợ, do hạn chế về nguồn lực và khả năng thích nghi.
Một số chính sách hiện tại chưa đủ cụ thể hoặc chưa đáp ứng tốt yêu cầu thực tế. Thí dụ, việc phân bổ nguồn lực hỗ trợ còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trong khi các DN “sếu đầu đàn” chưa nhận được những ưu đãi mang tính đột phá để tạo đà phát triển mạnh mẽ hơn.

Do đó, theo tôi cần thiết phải có những chính sách khác nhau cho từng nhóm DN, bởi mỗi nhóm có vai trò và nhu cầu hỗ trợ khác nhau. Đối với DN nhỏ và vừa, nên tập trung vào chính sách hỗ trợ khởi nghiệp, tiếp cận vốn, đào tạo nhân lực và chuyển giao công nghệ.
Các chính sách này giúp DN nhỏ phát triển bền vững và tạo nền tảng cho các DN lớn trong tương lai. Với DN lớn, cần có chính sách vượt trội, mang tính đột phá nhằm tạo điều kiện để những DN này vươn tầm khu vực và quốc tế. Điều này bao gồm ưu đãi thuế đặc biệt, hỗ trợ tài chính cho đổi mới sáng tạo và chính sách khuyến khích hợp tác công - tư trong các ngành kinh tế trọng yếu.
Riêng đối với DN dân tộc, đây là nhóm DN cần được ưu tiên hàng đầu với các chính sách đặc thù, nhằm giúp họ đạt được vai trò dẫn dắt. Những DN này nên là các tập đoàn lớn có năng lực cạnh tranh quốc tế, hoặc các DN có tiềm năng trở thành “sếu đầu đàn” trong các lĩnh vực then chốt như công nghệ cao, năng lượng tái tạo và nông nghiệp hiện đại.
- Thưa ông, trong lĩnh vực đầu tư năng lượng các DN tư nhân đang rất khó tiếp cận. Ông đánh giá như thế nào về thực trạng này?
- Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8% trở lên trong năm 2025, cũng như hướng tới mức tăng 2 con số trong những năm tiếp theo. Điều này đồng nghĩa với việc gia tăng nhu cầu sử dụng năng lượng ở cấp độ cao. Theo tính toán, nếu GDP tăng lên 1% thì điện phải tăng trưởng 2%. Do đó, việc thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực điện là rất quan trọng.
Tuy nhiên, việc khuyến khích DN tư nhân đầu tư vào lĩnh vực năng lượng còn gặp nhiều khó khăn, nhất là về quy hoạch và giá điện. Cái khó đầu tiên là khi đã có quy hoạch trước rồi mới khuyến khích đầu tư thì khó có sự linh hoạt để đầu tư. Cái khó thứ hai cho việc đầu tư vào lĩnh vực này là vấn đề giá.
Nếu tăng giá điện để DN có động lực đầu tư thì xã hội có chấp nhận không, đây là vấn đề lớn nhất. Muốn có giá thực chất thì phải tăng giá, mà tăng giá thì xã hội sẽ phản ứng mạnh mà giá điện thấp thì đầu tư khó, đặc biệt là đầu tư tư nhân.
Do đó, giá điện phải đưa lại lợi nhuận và lợi nhuận đầu tư vào điện phải lớn hơn đầu tư vào lĩnh vực khác, vì đây là lĩnh vực dễ tạo rủi ro. Có như vậy mới khuyến khích được đầu tư tư nhân vào lĩnh vực năng lượng. Cùng với đó, Nhà nước phải đóng vai trò rất lớn trong việc tạo ra cơ chế giá điện cạnh tranh và minh bạch.
Cơ chế mua bán điện đang thiếu hấp dẫn khi vai trò độc quyền của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) rất lớn. Việc đầu tư điện nói chung, điện mặt trời hay điện gió cần nguồn vốn lớn, trong khi tiếp cận vốn trong nước khó, lãi suất cao và tiếp cận vốn nước ngoài cần sự bảo lãnh của Chính phủ.
- Nhiều ý kiến cũng đề cập đến Việt Nam có thể xem xét hỗ trợ phát triển KTTN theo mô hình của một số nước phát triển. Song thực tế như mô hình “keiretsu” ở Nhật Bản hay “chaebol” tại Hàn Quốc đều có những hạn chế. Theo ông chúng ta nên nhìn nhận vấn đề này như thế nào?
- Tôi cho rằng mô hình keiretsu ở Nhật Bản và chaebol tại Hàn Quốc mang lại nhiều bài học quý giá trong việc xây dựng DN dân tộc, nhưng cũng tồn tại không ít hạn chế cần được xem xét kỹ lưỡng khi áp dụng. Những hạn chế này bao gồm tính tập trung quyền lực và độc quyền, khi một số ít gia tộc hoặc tập đoàn lớn thao túng thị trường, làm giảm tính cạnh tranh.
Bên cạnh đó, sự phụ thuộc lớn vào hỗ trợ của Chính phủ khiến các DN này dễ bị tổn thương khi chính sách thay đổi hoặc nền kinh tế biến động. Mặt khác, việc mở rộng quá nhanh và đầu tư dàn trải, cũng khiến nhiều tập đoàn lớn gặp rủi ro về tài chính và quản trị, dẫn đến nợ xấu hoặc phá sản khi gặp khủng hoảng toàn cầu. Thêm vào đó, mối quan hệ mật thiết giữa DN và chính trị tại một số nước còn dẫn đến nguy cơ tham nhũng và làm suy giảm lòng tin xã hội.
Để giảm thiểu những hạn chế này, Việt Nam cần có các giải pháp đồng bộ và phù hợp. Trước hết, cần xây dựng một khung pháp lý chặt chẽ, minh bạch, nhằm kiểm soát tình trạng độc quyền và bảo đảm sự công bằng. Nhà nước nên hỗ trợ DN dân tộc thông qua các chính sách tài chính, thuế và khuyến khích đổi mới sáng tạo, nhưng tránh tình trạng bao cấp kéo dài.
Đồng thời, cần tạo điều kiện để các DN lớn liên kết với DN vừa và nhỏ, hình thành hệ sinh thái kinh doanh bền vững. Việc giám sát mối quan hệ giữa DN và chính quyền cũng rất quan trọng để ngăn ngừa tham nhũng và lạm dụng chính sách.
Tuy nhiên, việc xây dựng DN dân tộc cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ mà chúng ta cần cảnh giác. Nếu không có chính sách hợp lý, sự ưu tiên quá mức cho các DN lớn có thể dẫn đến việc chèn ép các DN nhỏ, làm mất cân bằng trong hệ sinh thái kinh tế.
Một số DN có thể lạm dụng sự hỗ trợ từ Nhà nước để trục lợi mà không thực sự đóng góp vào sự phát triển chung. Hơn nữa, việc mở rộng nhanh ra thị trường quốc tế mà thiếu chuẩn bị kỹ lưỡng có thể khiến các DN này dễ tổn thương trước biến động toàn cầu. Các chính sách hỗ trợ cũng cần tránh tạo tâm lý ỷ lại, làm giảm động lực đổi mới và cạnh tranh.
- Xin cảm ơn ông.
Nguồn SGĐT: https://dttc.sggp.org.vn/can-chinh-sach-cho-tung-nhom-doanh-nghiep-post121120.html