Cần chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân 'đầu đàn'
Ngày 31/8, Viện Chiến lược phát triển (VIDS), Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Viện Konrad-Adenaeur-Stiftung Vietnam (KAS) công bố Báo cáo đánh giá 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam trong giai đoạn 2021-2022, giai đoạn nền kinh tế gặp đại dịch COVID-19.
Tại thời điểm 31/12/2021, Việt Nam có 694,2 ngàn doanh nghiệp tư nhân trong nước (VPE), chiếm 96,6% tổng số doanh nghiệp (DN) đang hoạt động, thu hút 58,1% số lao động, chiếm 59,3% tài sản và tạo ra 57,8% doanh thu thuần của khối DN.
Đại diện nhóm nghiên cứu, TS. Nguyễn Toàn Thắng, Trưởng ban Ban Quan hệ quốc tế VIDS cho biết, mặc dù xuất hiện ở 53/63 tỉnh/thành phố, VPE500 tập trung nhiều ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ (chiếm khoảng 75%) và có xu hướng tăng nhẹ. Nhìn chung, VPE500 đang được hình thành dựa trên các lợi thế hạ tầng, nguồn lực và thị trường của các địa phương. VPE500 phân bố ở 21/21 ngành cấp 1, trong đó, tập trung nhiều nhất ở ngành công nghiệp chế biến chế tạo, thương mại và xây dựng.
So sánh giữa hai năm COVID-19 và một năm trước đó, có biến động khá lớn về số DN ra vào trong danh sách VPE500. Năm 2020, có tới 97/500 DN (19,4%) đã không còn trong xếp hạng VPE500 của năm 2019. Những DN này tập trung vào nhóm ngành mà bị ảnh hưởng nhiều bởi COVID-19 như bất động sản và xây dựng, thương mại, dệt may, chế biến thực phẩm. Chỉ có một số ít ngành vẫn giữ được số lượng thuộc VPE500 là những ngành được đánh giá là hưởng lợi trong COVID-19 như thông tin truyền thông, bưu chính, sản xuất và phân phối điện.
Hầu hết các DN trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm vẫn giữ được vị trí trong bảng xếp hạng, đây cũng là nhóm có xếp hạng cao và ít thay đổi về thứ bậc. Tương tự, DN thuộc TOP50 vẫn giữ được xếp hạng và thứ hạng cũng ít thay đổi hơn.
Những thông tin trên cho thấy, trong giai đoạn COVID-19, mức độ ổn định của VPE500 có cao hơn, các DN lớn vẫn duy trì tốt được vị thế của mình trên thị trường so với nhóm DN nhỏ và vừa. DN dịch vụ chiếm ưu thế về số lượng DN trong VPE500, đặc biệt là trong nhóm 10 DN lớn nhất.
Với các DN tư nhân trong nước, đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng rất nhiều tới DN nhỏ hơn là với các DN lớn.
Báo cáo cũng chỉ ra, do nhóm VPE500 hoạt động vượt trội và vẫn duy trì tốt được tốc độ tăng trưởng so với DN tư nhân trong nước nói chung, mức độ vượt trội trên khía cạnh quy mô và kết quả kinh doanh bình quân của DN tư nhân trong nước. Trung bình giai đoạn 2019-2021, quy mô lao động cao gấp 160 lần và tổng tài sản bình quân của một DN thuộc VPE500 cao gấp khoảng và 376 lần DN tư nhân trong nước nói chung.
Nhờ quy mô và kết quả hoạt động vượt trội nên VPE500 chiếm tỷ lệ nhỏ về số lượng DN nhưng đóng góp lớn vào hoạt động của DN tư nhân trong nước. Bình quân giai đoạn 2019-2021, VPE500 chỉ chiếm 0,075% tổng số DN tư nhân trong nước nhưng tạo việc làm cho 12,0% lao động, chiếm 28% tổng tài sản, tạo ra 18,4% doanh thu gộp và đóng góp 18,4% nộp ngân sách của nhóm DN tư nhân trong nước.
Theo TS. Nguyễn Toàn Thắng, các chính sách với DN trong thời gian tới cần tiếp tục được hoàn thiện theo hướng không chỉ tạo thuận lợi với DN trong gia nhập thị trường mà còn giúp DN sống sót và tăng trưởng. Đặc biệt, cần khuyến khích các DN lớn đầu tư để cải tạo năng suất chuyển dần sang tăng trưởng theo chiều sâu.
Cùng với đó, Chính phủ cần có chính sách kinh tế thúc đẩy liên kết DN, khuyến khích DN lớn, DN nhà nước, DN FDI liên doanh, liên kết với các DN nhỏ và vừa trong nước; đồng thời nâng cao năng lực DN tham gia mạng lưới sản xuất, chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu; đồng thời, cần khuyến khích và tạo phong trào để từng địa phương xây dựng được các doanh nghiệp tư nhân hàng đầu của mình dựa trên những lợi thế địa phương và vươn tầm hoạt động trên phạm vi cả nước.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Tú Anh, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương cho rằng, muốn xây dựng DN tư nhân dẫn dắt thị trường, Chính phủ phải đưa ra chính sách để hỗ trợ DN phát triển.
“Chúng ta cần phải lọc 500 DN này, rồi tiếp tục khảo sát để xem doanh nghiệp họ cần gì, thì báo cáo của chúng ta sẽ có ý nghĩa hơn. DN muốn mở rộng thị trường hay quy mô, để có giải pháp dù điều này phụ thuộc vào nguồn lực của DN”, ông Tú cho hay.