Cần cơ chế, chính sách đặc thù về giáo dục cho Đồng bằng sông Cửu Long

Cần có cơ chế, chính sách đặc thù cho giáo dục Đồng bằng sông Cửu Long...

Quang cảnh hội nghị. Ảnh: Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Quang cảnh hội nghị. Ảnh: Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Ngày 27/2, tại thành phố Cần Thơ, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội nghị phát triển giáo dục và đào tạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; triển khai Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Báo cáo tình hình phát triển giáo dục và đào tạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long và nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục đào tạo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Ngọc Thưởng cho biết: Năm học 2019-2020, vùng Đồng bằng sông Cửu Long có tổng số có 2.002 cơ sở giáo dục mầm non với 584.099 trẻ em; 5.671 cơ sở giáo dục tiểu học với 1.251.886 học sinh; 1.341 cơ sở giáo dục THCS với 994.697 học sinh; 350 cơ sở giáo dục THPT với 433.072 học sinh. Toàn vùng có 176.173 giáo viên các cấp học mầm non, phổ thông.

MỘT SỐ CHỈ SỐ ĐẠT MỨC TRUNG BÌNH VÀ TRÊN TRUNG BÌNH

Trong 10 năm qua, giáo dục và đào tạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục ổn định và phát triển về quy mô mạng lưới trường, lớp, số học sinh/sinh viên từ mầm non đến đại học, được rà soát, sắp xếp theo hướng phù hợp với nhu cầu xã hội về ngành nghề và đa dạng về loại hình. Các ngành học, bậc học được giữ vững và phát triển về quy mô, số lượng và chất lượng. Chất lượng phổ cập giáo dục, xóa mù chữ được đảm bảo, quan tâm bên cạnh việc đầu tư cho giáo dục chất lượng cao. Chất lượng giáo dục đại trà được duy trì và nâng cao sau từng năm.

Điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục tiệm cận với mức trung bình chung của cả nước. Mặc dù còn nhiều khó khăn, vùng Đồng bằng sông Cửu Long vẫn có một số chỉ số về giáo dục và đào tạo đạt mức trung bình và trên trung bình so với cả nước. Từ việc chỉ có Trường Đại học Cần Thơ, hiện nay toàn vùng 17 trường đại học (trong có 6 trường đại học ngoài công lập), 10/13 tỉnh, thành phố đã có trường đại học. Tại các tỉnh còn lại đều có phân hiệu của các trường đại học hoặc có chủ trương đầu tư.

Tuy nhiên, giáo dục và đào tạo của vùng còn những tồn tại, hạn chế nhất định. Việc huy động trẻ đến trường còn thấp, nhất là trẻ nhà trẻ. Mạng lưới trường, lớp mầm non còn phân tán, nhiều địa phương còn nhiều điểm trường, đặc biệt là ở những vùng có nhiều kênh rạch, cồn, bãi ngang... Tỷ lệ huy động học sinh các cấp học phổ thông đi học đúng độ tuổi vẫn thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước, đặc biệt ở cấp THCS và cấp THPT có khoảng cách khá xa so với tỷ lệ chung của cả nước (từ 7% - 13%). Tỷ lệ người mù chữ của cả vùng còn cao.

Xây dựng cơ sở vật chất chủ yếu nhằm giải quyết nhu cầu phòng học, nhiều trường còn thiếu phòng học bộ môn, phòng chức năng, phòng làm việc. Tình trạng thiếu giáo viên còn xảy ra cục bộ ở một số địa phương. Chất lượng phổ cập giáo dục, xóa mù chữ cũng như chất lượng giáo dục đại trà, giáo dục mũi nhọn còn thấp so với mặt bằng chung của cả nước.

Chia sẻ về kinh nghiệm và kết quả phát triển mạng lưới quy mô trường lớp, ông Trần Quang Bảo, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Kiên Giang cho biết: Sau 5 năm thực hiện sắp xếp tinh gọn bộ máy các đơn vị sự nghiệp, tỉnh Kiên Giang đã giảm được 40 trường do sáp nhập trường có quy mô nhỏ, giảm 521 điểm lẻ, giảm 525 nhóm/lớp; tăng 2 trường Mầm non và tăng 3.828 em các cấp học. Dự kiến đến năm 2025 và 2030, tỉnh sẽ tiếp tục sắp xếp lại các trường phổ thông trên địa bàn tỉnh theo hướng giảm số lượng các trường có quy mô nhỏ, điểm lẻ; tăng số trường mầm non và trường phổ thông có nhiều cấp học.

Liên quan tới phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn 2021- 2025, định hướng đến năm 2030, bà Nguyễn Thị Bạch Vân, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Trà Vinh cho hay: Tỉnh sẽ tiếp tục triển khai sắp xếp, cơ cấu và đẩy mạnh thực hiện tự chủ các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành giáo dục và đào tạo, từ đó có thêm biên chế chưa sử dụng để tuyển dụng giáo viên; xây dựng phương án sắp xếp, điều chuyển giáo viên giữa các trường nhằm giải quyết có hiệu quả tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ, hợp đồng giáo viên để bổ sung số giáo viên còn thiếu cho các môn học mới; bảo đảm nguồn tuyển dụng.

Để đảm bảo đội ngũ nhà giáo, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Trà Vinh đề nghị Bộ xem xét ban hành Thông tư thay thế Thông tư số 16/2017/TT-BGDĐT Hướng dẫn danh mục khung vị trí việc làm và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục phổ thông công lập và xem xét tham mưu Chính phủ sớm sửa đổi, bổ sung Nghị định số 116/2020/NĐ-CP Quy định về chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm.

“Cần quan tâm hơn nữa, đầu tư giáo dục ở mức cao nhất, tốt nhất” là mong mỏi của bà Nguyễn Thị Quyên Thanh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long. Theo bà Thanh, với đặc thù địa hình, Đồng bằng sông Cửu Long có số điểm trường lẻ nhiều nhất cả nước, do dó một trong những việc cần được tập trung thực hiện đối với giáo dục Đồng bằng sông Cửu Long là rà soát mạng lưới giáo dục, khắc phục tình trạng phân tán, điểm nhỏ, điểm lẻ; đảm bảo cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên và chất lượng giáo dục.

Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn. Ảnh: Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn. Ảnh: Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Cho rằng, cần có cơ chế, chính sách đặc thù cho giáo dục Đồng bằng sông Cửu Long, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long cho biết, thời gian qua việc này đã được đề cập nhưng vẫn chưa được thực hiện. Một số chính sách đặc thù được bà Thanh đề xuất như: Chính sách đặc thù về tiền ăn trưa cho trẻ mầm non, học sinh lớp 1 ven sông; với tỷ lệ bỏ học cao, cần có chính sách đặc thù về phát triển hệ thống trường nghề, chính sách với học nghề…

NHÓM GIẢI PHÁP TỔNG THỂ

Tại hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn đề cập tới các nhóm công việc và giải pháp tổng thể về đầu tư cơ sở hạ tầng; trong đó cấp bách là kiên cố hóa trường lớp, đầu tư trang thiết bị, phòng học bộ môn. Với quan điểm “Không dồn cho bằng được nhưng không để phân tán quá”, Bộ trưởng lưu ý, việc quy hoạch, sắp xếp mạng lưới trường học cần có phương án phù hợp với khu vực địa hình sông nước, chia cắt như Đồng bằng sông Cửu Long, khi xây dựng trường học, cần chọn những mẫu trường học phù hợp với địa hình, hướng đến mô hình gần gũi với thiên nhiên.

“Chúng ta cần phải đặt mục tiêu nâng cao mặt bằng dân trí là một yêu cầu đặc thù, thiết thân. Với tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ người chưa được huy động đến trường, tỷ lệ người chưa thiết tha với việc đi học còn cao và với tỷ lệ vào đại học thấp… câu chuyện nhấn mạnh nâng cao dân trí là việc quan trọng. Sau đó mới tính đến nhân lực chất lượng cao”, Bộ trưởng nêu rõ, đồng thời cũng cho rằng, vấn đề của Đồng bằng sông Cửu Long lúc này còn là phát triển hệ thống các trường đại học và tăng tỷ lệ học đại học.

Cho rằng, mỗi tỉnh/thành phố và cả vùng tuy có vấn đề chung nhưng tình hình khác nhau, có địa phương thuận lợi, cũng có địa phương khó khăn, Bộ trưởng lưu ý các địa phương tập trung phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, ngành để đề xuất chính sách đầu tư, khắc phục những khó khăn, đưa giáo dục của cả vùng cùng tiến với tốt độ tốt hơn trong giai đoạn tới.

Bộ trưởng cũng cho biết, sau Hội nghị này, Bộ sẽ xác định hàng loạt việc phải làm nhằm tăng cường sự quan tâm tới giáo dục và đào tạo khu vực này.

Đỗ Như

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/can-co-che-chinh-sach-dac-thu-ve-giao-duc-cho-dong-bang-song-cuu-long.htm