Cần số hóa truy xuất nguồn gốc nông sản, thực phẩm

Việc truy xuất nguồn gốc và minh bạch thông tin sản phẩm là điều kiện vô cùng quan trọng và cực kỳ hữu ích đối với người sản xuất cũng như người tiêu dùng. Tuy nhiên, để số hóa trong truy xuất nguồn gốc nông sản đi vào thực tế cần sự hợp tác các bên.

Việc truy xuất nguồn gốc và minh bạch thông tin sản phẩm là điều kiện vô cùng quan trọng và cực kỳ hữu ích đối với người tiêu dùng. Ảnh: NNK

Việc truy xuất nguồn gốc và minh bạch thông tin sản phẩm là điều kiện vô cùng quan trọng và cực kỳ hữu ích đối với người tiêu dùng. Ảnh: NNK

Ngày 28/2, Tổ điều hành Diễn đàn kết nối nông sản 970 (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - NN&PTNT) và Nhóm tham vấn kinh doanh nông nghiệp (ARG) của Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế Úc tại Việt Nam phối hợp tổ chức Diễn đàn “Thúc đẩy số hóa trong truy xuất nguồn gốc nông sản - thực phẩm”.

16.987 sản phẩm nông sản thực phẩm có bộ mã truy xuất nguồn gốc

Tại diễn đàn, các đại biểu đều nhận định việc đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm và minh bạch nguồn gốc xuất xứ không chỉ phục vụ cho việc xuất khẩu mà trước hết chính vì sức khỏe của 100 triệu người dân Việt Nam.

Nông sản Việt Nam đã có mặt ở gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ cho thấy uy tín và vị thế ngày càng cao của nông sản Việt trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, thị trường quốc tế ngày càng khắt khe với các sản phẩm nhập khẩu của Việt Nam. Đặc biệt, là việc nông sản cần đảm bảo yêu cầu, quy định đưa ra từ phía nước nhập khẩu, trong đó có vấn đề thực hiện truy xuất nguồn gốc. Trong lĩnh vực nông nghiệp, Bộ NN&PTNT không ngừng nỗ lực thúc đẩy chuyển đổi số để xây dựng một nền nông nghiệp minh bạch, tích hợp đa giá trị.

Ông Nguyễn Hoài Nam - đại diện Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp cho biết, hệ thống truy xuất nguồn gốc của Bộ NN& PTNT đang được cài đặt và vận hành chính thức tại Bộ tại địa chỉ truy cập: http://checkvn.mard.gov.vn.

Hệ thống đã xây dựng được 3 phân hệ chính gồm: Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc; hệ thống quản lý, cập nhật thông tin, dữ liệu về truy xuất nguồn gốc dành cho đối tượng là cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp; cho phép khai thác sử dụng bằng ứng dụng trên thiết bị di động trong việc tìm kiếm, truy vết, tra cứu thông tin nguồn gốc sản phẩm.

Hiện nay, Cục Bảo vệ thực vật đang xây dựng phần mềm quản lý cơ sở đóng gói tại địa chỉ: https://cms.packinghouse.online và các chủ cơ sở đóng gói có thể liên hệ với Cục Bảo vệ thực vật để có tài khoản dùng thử. Bên cạnh đó, Cục đã xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói xuất khẩu. Hệ thống sử dụng cho các cơ quan quản lý (Cục Bảo vệ thực vật và cơ quan đầu mối tại các địa phương) và kết nối dữ liệu với “Nhật ký đồng ruộng” và trong tương lai là phần mềm về “quản lý cơ sở đóng gói”.

Đến thời điểm hiện tại, hệ thống đang kết nối, chia sẻ dữ liệu với 8 hệ thống truy xuất nguồn gốc của 8 tỉnh, thành phố và có hơn 3.964 doanh nghiệp với bộ mã truy xuất nguồn gốc của 16.987 sản phẩm nông sản thực phẩm.

So sánh với hệ thống Dịch vụ công Quốc gia, ông Nguyễn Hoài Nam cho rằng, để hệ thống truy xuất nguồn gốc tại Bộ NN&PTNT hoạt động thực sự hiệu quả, rất cần sự kết nối, dẫn dắt của Cổng truy xuất nguồn gốc Quốc gia. Do đó, đại diện Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp kiến nghị, truy xuất nguồn gốc nông sản nói riêng và các sản phẩm khác nói chung cần được xây dựng, phát triển theo hướng kết nối, liên thông và tập trung.

Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật Huỳnh Tấn Đạt (Bộ NN&PTNT) chia sẻ, nguyên tắc để quản lý truy xuất nguồn gốc là chúng ta kiểm soát toàn bộ thông tin từ trang trại, vườn trồng đến sơ chế, đóng gói, chế biến, lưu kho, vận chuyển, phân phối và tiêu dùng. Để đảm bảo điều đó, chúng tôi đã đưa ra toàn bộ điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm thuộc vi phạm quản lý của Bộ NN&PTNT. Theo đó, vườn trồng hoặc cơ sở đóng gói có nhu cầu đăng ký mã số thì trước tiên phải bảo đảm tuân thủ các yêu cầu của nước nhập khẩu. Việc đăng ký mã số trên cơ sở tự nguyện.

Ông Huỳnh Tấn Đạt cũng nhấn mạnh, việc kiểm tra đánh giá là căn cứ để cấp mã số hoặc duy trì, phục hồi mã số. Mã số phải được công nhận bởi nước nhập khẩu. Mã số được cấp phải luôn bảo đảm tuân thủ các điều kiện của nước nhập khẩu và phải được giám sát bởi cơ quan quản lý để duy trì mã số.

Các sản phẩm nông sản thực hiện truy xuất nguồn gốc. Ảnh: NNK

Các sản phẩm nông sản thực hiện truy xuất nguồn gốc. Ảnh: NNK

Để số hóa trong truy xuất nguồn gốc cần sự hợp tác các bên

Nhiều ý kiến cũng cho rằng, việc truy xuất nguồn gốc và minh bạch thông tin sản phẩm là điều kiện vô cùng quan trọng và cực kỳ hữu ích đối với người sản xuất cũng như cung ứng sản phẩm để bảo vệ thương hiệu của mình cũng như quảng bá sản phẩm, bảo vệ nhà cung cấp. Tuy nhiên, để xây dựng phần mềm linh hoạt cho người dân, doanh nghiệp ứng dụng đồng bộ, dễ dàng thì cần sự hỗ trợ của các bên.

Bà Nguyễn Thị Thành Thực - Chủ tịch HĐQT - Giám đốc Công ty CP Công nghệ phần mềm AutoAgri nhấn mạnh, để ứng dụng công nghệ số phục vụ truy xuất nguồn gốc thì nền tảng ứng dụng phải linh hoạt. Không thể đưa nền tảng đồng nhất ứng dụng cho tất cả mọi nơi được và cơ quan nhà nước cần sẵn sàng mở hướng để các doanh nghiệp tư nhân tham gia trong lĩnh vực số hóa.

Thời gian tới, Hợp tác xã Kinh tế số Việt Nam mong muốn sẽ được phối hợp chặt chẽ với tổ điều hành Diễn đàn kết nối nông sản 970 phát triển mạnh mẽ một cổng thông tin chung về quản lý, giám sát thông tin sản phẩm. Qua đó, có thể đưa thông tin của hàng vạn HTX, ngành hàng, giá bán, giá mua nông sản… để tất cả các chủ thể có nhu cầu dễ dàng tiếp cận, tiến tới tất cả các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ sẽ được minh bạch thông tin, cần phải có phần mềm phù hợp, đặc biệt là phải phù hợp với trình độ của người sử dụng.

Đồng quan điểm này, ông Mai Quang Vinh -Chủ tịch Liên hiệp Hợp tác xã Kinh tế số Việt Nam cho rằng, muốn thúc đẩy số hóa trong truy xuất nguồn gốc sản phẩm, cơ quan nhà nước cần tạo thành những hướng dẫn để doanh nghiệp dễ hiểu hơn. Về phía người dân và doanh nghiệp, phần mua bán hàng hóa và kế toán thuế hầu hết đều do các doanh nghiệp tư nhân phát triển bởi vì các doanh nghiệp tư nhân về công nghệ số và phần mềm sẽ cập nhật nhanh hơn và hiểu rõ hơn nhu cầu thực tế của thị trường.

Về phía cơ quan nhà nước, ông Nguyễn Quốc Toản - Giám đốc Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp (Bộ NN&PTNT) cũng chia sẻ, truy xuất nguồn gốc là một trong 8 vấn đề trọng tâm trong chuyển đổi số nông nghiệp. Để số hóa trong truy xuất nguồn gốc nông sản thực sự đi vào thực tiễn, có tính hiệu quả cao, rất cần sự tham gia, phối hợp của tất cả các bên, từ nhà nước tới doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân.

Về các giải pháp cải thiện hệ thống truy xuất nguồn gốc, ông Nguyễn Quốc Toản nhấn mạnh, cần có các cơ chế, hành lang tạo điều kiện, làm sống ứng dụng bởi bất kỳ phần mềm nào cũng cần thời gian vận hành và xây dựng dữ liệu. Bên cạnh đó, phải hệ thống hóa các quy trình sản xuất, quy trình chế biến và có tính liên thông giữa các quy trình.../.

Hiện nay, Việt Nam có 19.000 hợp tác xã nông nghiệp, 14.200 doanh nghiệp nông nghiệp, 7.500 cơ sở chế biến nông nghiệp, 9.400 siêu thị và chợ hạng 1, đây là các dữ liệu cấu thành Big data của ngành nông nghiệp. Do đó, truy xuất nguồn gốc phải tổng thể và rất cụ thể để bao quát được dữ liệu khổng lồ.

Nam Khánh

Nguồn Thời báo Tài chính: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/can-so-hoa-truy-xuat-nguon-goc-nong-san-thuc-pham-122507.html