Cần xác định rõ lĩnh vực ưu tiên trong Chiến lược quốc gia về trí tuệ nhân tạo
Thảo luận tại tổ, các ý kiến đại biểu Quốc hội cho rằng, trong bối cảnh các nước đang đầu tư mạnh mẽ vào trí tuệ nhân tạo (AI), việc ban hành luật là hết sức cấp thiết để Việt Nam không tụt lại phía sau và chủ động tận dụng các cơ hội của làn sóng công nghệ mới.
Sáng 21/11, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội thảo luận tại tổ về dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo.
Xác định rõ các lĩnh vực ưu tiên chiến lược
Góp ý vào dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo, đại biểu Bùi Hoài Sơn (Đoàn thành phố Hà Nội) bày tỏ quan tâm đến cách đạo luật này định hình “văn hóa AI”, bảo đảm AI phục vụ con người, tôn trọng các giá trị văn hóa, đạo đức, bản sắc dân tộc và quyền con người.
Về chính sách của Nhà nước, theo đại biểu cần nhấn mạnh hơn chiều cạnh văn hóa và năng lực thích ứng xã hội với AI. Điều 5 của dự thảo Luật đã xác định Nhà nước thực hiện chính sách “phát triển trí tuệ nhân tạo trở thành động lực quan trọng cho tăng trưởng, đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững đất nước”, đồng thời gắn với phát triển xanh, bao trùm, bảo vệ môi trường và “giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”.

Đại biểu Bùi Hoài Sơn (Đoàn thành phố Hà Nội). (Ảnh: DUY LINH)
Từ góc nhìn của một đại biểu hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, đại biểu Bùi Hoài Sơn đề nghị dự thảo Luật cần ghi nhận rõ hơn các định hướng sau:
Khuyến khích, ưu tiên ứng dụng AI trong bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, trong sáng tạo nghệ thuật, trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Đây là những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế về tài nguyên văn hóa, nhưng còn hạn chế về nguồn lực; AI có thể là công cụ hữu hiệu để số hóa di sản, tạo các sản phẩm trải nghiệm mới, nâng cao năng suất sáng tạo.
Đồng thời, có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sáng tạo, startup văn hóa – nghệ thuật ứng dụng AI, thí dụ trong sản xuất phim ảnh, âm nhạc, thiết kế, quảng cáo, du lịch văn hóa…, đồng thời yêu cầu tuân thủ nghiêm các chuẩn mực đạo đức, bản quyền.
“Khi nói đến dữ liệu lớn phục vụ huấn luyện AI, cần coi dữ liệu văn hóa – lịch sử, ngôn ngữ, văn học nghệ thuật Việt Nam là một “tài nguyên chiến lược”, đại biểu nêu rõ.
Về Chiến lược quốc gia về AI, tại Điều 20 dự thảo Luật đã xây dựng khung định hướng đúng đắn cho Chiến lược quốc gia về AI, bao gồm phát triển công nghệ, hạ tầng, dữ liệu và nhân lực.
Tuy nhiên, theo đại biểu Nguyễn Thị Lan (Đoàn thành phố Hà Nội), nội dung còn mang tính khái quát, chưa xác định rõ các lĩnh vực ưu tiên chiến lược – những lĩnh vực mà AI có thể tạo ra tác động lan tỏa mạnh mẽ và phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Nhấn mạnh nếu không có trọng tâm, Chiến lược rất dễ bị dàn trải, khó tạo đột phá, đại biểu Lan đề nghị dự thảo Luật cần xác định rõ các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, y tế, giáo dục, môi trường và quản trị công; đồng thời quy định nguyên tắc lựa chọn lĩnh vực trọng tâm và trách nhiệm của từng bộ, ngành trong triển khai Chiến lược.
"Đây là yêu cầu quan trọng để bảo đảm Chiến lược có tính khả thi và tạo ra giá trị thực", đại biểu nói.
Hoàn thiện cơ chế phát triển nguồn nhân lực AI
Quan tâm đến cơ chế phát triển nguồn nhân lực AI, đại biểu Nguyễn Thị Lan (Đoàn thành phố Hà Nội) chỉ ra: Dự thảo đã nêu định hướng phát triển nhân lực AI ở Điều 24, nhưng vẫn còn ba điểm nghẽn lớn của giáo dục đại học mà luật chưa giải quyết:
Một là, thủ tục mở ngành mới còn chậm, trong khi AI thay đổi rất nhanh.
Hai là, các trường khó thu hút chuyên gia quốc tế do thiếu cơ chế đặc thù.
Ba là, chưa có chính sách phát triển giảng viên AI một cách mạnh mẽ.
Vì vậy, nữ đại biểu Đoàn thành phố Hà Nội đề nghị bổ sung vào dự thảo Luật các cơ chế đặc thù cho giáo dục đại học: cho phép trường chủ động mở ngành mới; có chính sách thu hút chuyên gia quốc tế; và có cơ chế phát triển giảng viên, đặc biệt trong các ngành AI – dữ liệu – tự động hóa. Đồng thời, cần làm rõ phạm vi “AI phục vụ nghiên cứu – đào tạo” để bảo đảm hoạt động học thuật được thông thoáng.
Dẫn kinh nghiệm từ Singapore, Hàn Quốc hay Israel cho thấy nơi nào trao quyền tự chủ mạnh cho đại học và khuyến khích hợp tác với doanh nghiệp, nơi đó nhân lực AI phát triển nhanh và bền vững, đại biểu nhấn mạnh, thực tiễn Việt Nam cũng chứng minh rằng các trường có cơ chế linh hoạt đào tạo được đội ngũ tốt hơn và nhanh hơn.

Đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ về dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo. (Ảnh: TH)
Đánh giá cao quy định về phát triển nguồn nhân lực tại dự thảo Luật thể hiện sự quan tâm toàn diện và chiến lược của Nhà nước đối với việc phát triển nguồn nhân lực AI, bao gồm các cấp độ từ phổ thông đến đại học/nghiên cứu và vai trò của các bên liên quan (Nhà nước, cơ sở giáo dục, doanh nghiệp), song đại biểu Nguyễn Thị Tuyết Nga (Đoàn Quảng Trị) đề nghị bổ sung quy định về thu hút chuyên gia AI trong và ngoài nước tham gia giảng dạy và nghiên cứu tại các cơ sở giáo dục đại học cũng như chính sách luân chuyển/cộng tác viên giữa doanh nghiệp và nhà trường.
Cũng theo đại biểu Tuyết Nga, dự thảo Luật chưa có Điều nào quy định về các hành vi bị nghiêm cấm. Trong khi đó, theo đại biểu, quy định hành vi cấm trong Luật AI là “lá chắn pháp lý” để ngăn AI trở thành công cụ gây hại, bảo vệ quyền con người, thúc đẩy cạnh tranh công bằng và đồng bộ quốc tế - thay vì kìm hãm, sẽ định hướng AI phát triển có trách nhiệm. Trên cơ sở đó, đại biểu đề nghị nghiên cứu bổ sung một Điều quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong dự thảo Luật.














