Cạnh tranh công bằng trong chuỗi nông sản: Cần thêm vai trò của Nhà nước?

Câu hỏi 'Nhà nước có nên can thiệp vào quan hệ dân sự?' cần được đặt lại là không phải để can thiệp hành chính mà là để tạo khung pháp lý. Điều này sẽ bảo đảm sự công bằng từ người sản xuất đến người tiêu dùng, giúp hệ sinh thái nông nghiệp phát triển bền vững.

Chuỗi cung ứng hàng hóa nông sản phải có mục tiêu là thị trường và thị trường phải là “thị trường tiêu chuẩn”. Trong ảnh: Chế biến chuối xuất khẩu tại một hợp tác xã ở Lâm Đồng. Ảnh: Hùng Lê

Chuỗi cung ứng hàng hóa nông sản phải có mục tiêu là thị trường và thị trường phải là “thị trường tiêu chuẩn”. Trong ảnh: Chế biến chuối xuất khẩu tại một hợp tác xã ở Lâm Đồng. Ảnh: Hùng Lê

Trong bối cảnh ngành nông nghiệp đang chuyển dịch mạnh mẽ sang mô hình chuỗi giá trị, bài toán “cạnh tranh công bằng” không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là thách thức pháp lý.

Khi doanh nghiệp đầu chuỗi nắm quyền kiểm soát tuyệt đối về giá cả, hợp đồng, thậm chí cả thị trường tiêu thụ thì câu hỏi đặt ra là: ai sẽ bảo vệ người nông dân - mắt xích yếu nhất nhưng cũng quan trọng nhất trong hệ thống?

Khi “cá lớn” lấn át “cá bé”

Việt Nam đã và đang chứng kiến sự gia tăng của các mô hình liên kết sản xuất - tiêu thụ nông sản theo chuỗi: doanh nghiệp bao tiêu, hợp tác xã kiểu mới, liên minh nông hộ. Đây là tín hiệu tích cực nếu xét về mặt quy mô, năng suất và khả năng truy xuất nguồn gốc. Tuy nhiên, trên thực tế, không ít trường hợp hợp đồng liên kết bị áp đặt một chiều, trong đó nông dân hoàn toàn ở thế yếu.

Một ví dụ điển hình là các hợp đồng bao tiêu có điều khoản “mua tùy điều kiện thị trường”, cho phép doanh nghiệp đơn phương từ chối thu mua khi giá thấp trong khi người dân đã đầu tư sản xuất theo đúng yêu cầu. Ngoài ra, hiện tượng “ép giá”, “ép thời điểm thu hoạch”, thậm chí “ép giống - ép thuốc” cũng diễn ra phổ biến ở một số địa phương.

Cạnh tranh trong chuỗi nông sản, vì thế, nhiều khi không diễn ra giữa các doanh nghiệp - mà là giữa bên yếu và bên mạnh, giữa người sản xuất nhỏ và nhà phân phối lớn.

Pháp luật đã có quy định nhưng chưa đủ sức răn đe

Về mặt pháp lý, Luật Cạnh tranh 2018 cấm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để áp đặt điều kiện bất lợi cho đối tác thương mại (**). Tuy nhiên, để chứng minh “vị trí thống lĩnh” trong chuỗi nông sản, khi mà hợp đồng mang tính dân sự, đối tác thường không có tư cách pháp nhân, lại là điều không dễ.

Bên cạnh đó, Luật Hợp tác xã 2023 và Luật Trồng trọt, Luật Chăn nuôi cũng khuyến khích mô hình liên kết nhưng chưa có chế tài mạnh khi doanh nghiệp vi phạm hợp đồng bao tiêu. Ngay cả khi nông dân thắng kiện, việc thi hành án, đền bù thiệt hại, hoặc xử lý trách nhiệm vẫn không hiệu quả do chi phí kiện tụng cao, bằng chứng khó thu thập và tâm lý e ngại tranh chấp.

Pháp luật vì vậy đang rơi vào thế “đi sau” so với tốc độ tổ chức lại chuỗi cung ứng nông sản. Và người yếu thế tiếp tục phải chịu thiệt.

Vai trò Nhà nước: Từ khuyến khích đến bảo vệ

Trong nhiều năm qua, vai trò của Nhà nước trong ngành nông nghiệp chủ yếu nghiêng về hỗ trợ: khuyến khích mô hình liên kết, trợ cấp tín dụng, đào tạo kỹ thuật. Nhưng trong bối cảnh chuỗi nông sản ngày càng bị chi phối bởi các “đầu mối lớn” có khả năng áp đặt điều kiện bất lợi, vai trò đó cần chuyển từ khuyến khích sang bảo vệ, cụ thể là bảo vệ nguyên tắc cạnh tranh công bằng ngay trong nội bộ chuỗi giá trị.

Một cách tiếp cận hiện đại không chỉ là tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, mà còn chủ động thiết lập những “điểm neo pháp lý” để bảo vệ người yếu thế khỏi các hành vi bóp méo thị trường trong vỏ bọc hợp tác kinh doanh. Để làm được điều đó, cần những hành động thiết thực:

Thứ nhất, ban hành hợp đồng mẫu có ràng buộc pháp lý theo từng ngành hàng. Các hợp đồng liên kết hiện nay phần lớn là do bên thu mua soạn thảo, dẫn đến bất cân xứng thông tin nghiêm trọng. Việc xây dựng hợp đồng mẫu, có yếu tố tùy chỉnh, do Bộ Nông nghiệp và môi trường phối hợp cùng Bộ Tư pháp ban hành, sẽ giúp chuẩn hóa mối quan hệ thương mại, bảo đảm tính công bằng và minh bạch trong giao kết.

Thứ hai, thiết lập cơ chế hòa giải và trọng tài chuyên biệt cho lĩnh vực nông nghiệp. Với đặc thù chuỗi sản xuất phân tán và đa dạng, không phải tranh chấp nào cũng nên hoặc có thể đưa ra tòa án. Việc thành lập trung tâm hòa giải - trọng tài nông nghiệp mang tính ngành sẽ giúp giải quyết tranh chấp nhanh chóng, tiết kiệm chi phí, và quan trọng nhất: thấu hiểu bối cảnh nông nghiệp thay vì áp dụng máy móc nguyên tắc dân sự thông thường.

Thứ ba, giám sát và cảnh báo lạm dụng vị thế trong hợp đồng liên kết. Cần có một cơ quan liên ngành đóng vai trò “thanh tra thị trường trong chuỗi”, không chỉ phát hiện hành vi gian lận thương mại, mà còn rà soát các biểu hiện lạm dụng vị trí kinh tế mạnh như ép giá, đơn phương hủy hợp đồng, hoặc áp đặt điều kiện thu mua bất lợi. Các cảnh báo sớm sẽ giúp bảo vệ nông dân khỏi rủi ro mất mùa - mất giá ngay cả khi đã sản xuất đúng cam kết.

Thứ tư, đầu tư cho hạ tầng minh bạch hóa thị trường. Sự phụ thuộc vào một hoặc vài doanh nghiệp đầu mối phần lớn bắt nguồn từ thiếu thông tin: về giá, nhu cầu thị trường, năng lực bảo quản - vận chuyển. Việc xây dựng nền tảng dữ liệu mở về giá cả, tình hình cung cầu theo vùng và các kênh kết nối logistics có thể trao lại cho nông dân công cụ để đàm phán công bằng đồng thời giúp doanh nghiệp phân phối tiếp cận nguồn cung ổn định, minh bạch hơn.

Trong chuỗi giá trị, cạnh tranh không chỉ là “giữa các doanh nghiệp lớn” mà còn cần bảo đảm sự công bằng trong từng khâu: từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Chỉ khi đó, hệ sinh thái nông nghiệp mới thực sự bền vững.

Câu hỏi “Nhà nước có nên can thiệp vào quan hệ dân sự?” cần được đặt lại: không phải để can thiệp hành chính mà là để tạo khung pháp lý cân bằng. Để mỗi giao dịch trong chuỗi là một cam kết win-win (hai bên cùng được lợi) chứ không phải cuộc chơi thắng - thua.

----------------------------------

(*) Công ty Luật TNHH First Counsel

(**) Điều 27 Luật Cạnh tranh 2018

LS. Dương Văn Quý (*)

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/canh-tranh-cong-bang-trong-chuoi-nong-san-can-them-vai-tro-cua-nha-nuoc/