Chính thức trình Quốc hội xem xét chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam
Dự án đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam trị giá hơn 67 tỷ USD, tốc độ thiết kế 350k/h, phấn đấu cơ bản hoàn thành toàn tuyến vào năm 2035. Tuyến đường sắt bắt đầu từ ga Ngọc Hồi (Hà Nội) và kết thúc tại ga Thủ Thiêm (TP.HCM), đi qua địa phận 20 tỉnh, thành phố; chiều dài tuyến khoảng 1.541km.
Sáng 13/11, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 8, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Văn Thắng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.
Tổng mức đầu tư sơ bộ khoảng 67,34 tỷ USD
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cho biết, năm 2010, ý tưởng xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam đã được đưa ra nhưng Quốc hội chưa thông qua do còn ý kiến băn khoăn về tốc độ, phương án khai thác, nguồn lực đầu tư trong bối cảnh quy mô nền kinh tế thời điểm đó thấp (GDP là 147 tỷ USD), nợ công ở mức cao (56,6% GDP).
Hiện nay, nhu cầu vận tải ngày càng tăng cao, quy mô nền kinh tế năm 2023 đạt 430 tỷ USD, gấp gần 3 lần so với năm 2010; nợ công ở mức thấp - khoảng 37% GDP. Vì thế, nếu dự kiến triển khai dự án vào năm 2027, quy mô nền kinh tế ước đạt 564 tỷ USD, nguồn lực đầu tư lúc này không còn là trở ngại lớn.
Theo đó, tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam được trình ra Quốc hội lần này dự kiến bắt đầu từ ga Ngọc Hồi (Hà Nội) và kết thúc tại ga Thủ Thiêm (TP.HCM), đi qua địa phận 20 tỉnh, thành phố.
Dự án có chiều dài tuyến khoảng 1.541km, xây dựng mới tuyến đường sắt đôi, khổ 1.435mm với tốc độ thiết kế 350 km/h.
Theo phương án Chính phủ trình, đường sắt tốc độ cao sẽ vận chuyển hành khách, đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh và có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết.
Theo phương án thiết kế sơ bộ, hướng tuyến của đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam được nghiên cứu và lựa chọn “ngắn nhất có thể”; hạn chế đi qua các khu vực nhạy cảm về môi trường, các khu di tích, danh lam thắng cảnh, đất quốc phòng; giảm khối lượng giải phóng mặt bằng, tránh các khu vực đông dân cư.
Trên dọc tuyến cao tốc, Chính phủ dự kiến bố trí 23 ga hành khách, mỗi vị trí ga quy hoạch không gian phát triển từ 200 đến 500ha. 5 ga hàng hóa có quy mô mỗi ga khoảng 24,5ha.
Về phương án giải phóng mặt bằng, tái định cư, Chính phủ cho biết, sơ bộ tổng nhu cầu sử dụng đất của dự án khoảng 10.827ha; số dân tái định cư khoảng 120.836 người.
Dự án sẽ được thực hiện theo hình thức đầu tư công với tổng mức đầu tư sơ bộ hơn 1,7 triệu tỷ đồng (khoảng 67,34 tỷ USD).
Dự kiến nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí trong các kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn để đầu tư hoàn thành dự án vào năm 2035, bố trí vốn trong khoảng 12 năm (từ năm 2025 đến năm 2037), bình quân mỗi năm khoảng 5,6 tỷ USD - tương đương khoảng 1,3% GDP năm 2023 và khoảng 1%GDP năm 2027 (thời điểm khởi công dự án). Quá trình triển khai sẽ huy động đa dạng các nguồn vốn hợp pháp để đầu tư.
Về tiến độ, Chính phủ tính toán hoàn thành công tác lập và phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế vào năm 2025- 2026; khởi công dự án năm 2027; phấn đấu cơ bản hoàn thành toàn tuyến năm 2035.
Đánh giá hiệu quả Dự án, Chính phủ nêu rõ, tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam là công trình có tính biểu tượng, ý nghĩa chiến lược, đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế. Việc đầu tư dự án sẽ góp phần tăng cường kết nối các cực tăng trưởng, mở ra không gian phát triển kinh tế mới; tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Dự án nếu được phê duyệt sẽ tạo tiền đề quan trọng để đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao; tạo động lực phát triển công nghiệp đường sắt, công nghiệp hỗ trợ.
Bên cạnh đó, đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam được kỳ vọng góp phần phát triển phương thức vận tải bền vững, hiện đại, thân thiện, làm giảm tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường.
Làm rõ hơn phương án bố trí vốn và khả năng cân đối vốn
Thẩm tra Tờ trình của Chính phủ về chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh nêu rõ, Ủy ban Kinh tế thống nhất sự cần thiết đầu tư Dự án với những cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý và những lý do đã được nêu tại Tờ trình. Dự án đáp ứng các tiêu chí dự án quan trọng quốc gia thuộc thẩm quyền Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư theo quy định tại Điều 7 Luật Đầu tư công.
Về nguồn vốn cho Dự án, theo cơ quan thẩm tra, sơ bộ tổng mức đầu tư Dự án 1.713.548 tỷ đồng (khoảng 67,34 tỷ USD). So với tổng mức vốn đầu tư trung hạn nguồn ngân sách trung ương (NSTW), sơ bộ tổng mức đầu tư Dự án vượt quá (bằng 114%) tổng vốn đầu tư công trung hạn NSTW giai đoạn 2021-2025 và tương đương 59,7% tổng mức vốn đầu tư công trung hạn nguồn NSNN giai đoạn 2021-2025. Vì vậy, cần nghiên cứu, xem xét thận trọng.
Trong đó, về khả năng đáp ứng của nguồn lực ngân sách nhà nước (NSNN), Tờ trình của Chính phủ và các tài liệu kèm theo chưa thể hiện rõ về phân kỳ đầu tư, dự kiến số vốn cụ thể trong các giai đoạn. Đây là nội dung quan trọng cần có sự phối hợp giữa các bộ, cơ quan liên quan để xây dựng phương án bố trí vốn bảo đảm tính khả thi.
Ngoài ra, theo Phụ lục số 07 kèm theo Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi cho thấy, sau thời gian dự kiến hoàn thành của Dự án (năm 2035), từ năm 2036 đến năm 2066, chi phí vận hành và bảo trì Dự án hằng năm đều ở mức trên 25.000 tỷ đồng và chưa rõ phương án chi trả.
“Để có cơ sở Quốc hội xem xét, quyết định, đề nghị Chính phủ báo cáo rõ hơn về phương án bố trí vốn và khả năng cân đối vốn NSNN sử dụng cho Dự án. Đồng thời, đề nghị rà soát danh mục, số vốn cho các dự án ưu tiên đầu tư trong các giai đoạn tới và phương án ưu tiên bố trí vốn đối với các dự án, báo cáo Quốc hội quyết định đối với từng giai đoạn cho phù hợp” - ông Vũ Hồng Thanh nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, về an toàn nợ công, Tờ trình và các tài liệu kèm theo khẳng định 03 tiêu chí về mức dư nợ công, dư nợ Chính phủ và dư nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn cho phép.
Tuy nhiên, 02 tiêu chí quan trọng là bội chi NSNN bình quân và chi trả nợ trực tiếp dự kiến sẽ tăng ở mức khá cao. Vì vậy, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ đánh giá cụ thể về tác động của việc đầu tư Dự án đến bội chi NSNN, nợ công, khả năng trả nợ của ngân sách nhà nước trong trung hạn và dài hạn, tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc về hạn mức chỉ tiêu an toàn nợ công để bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, không gây áp lực trả nợ lên các giai đoạn sau.