Chuyển đổi số góp phần chấm dứt đại dịch AIDS vào năm 2030
Chuyển đổi số đang tạo bước ngoặt trong phòng, chống HIV/AIDS, khi công nghệ 4.0 giúp truyền thông trúng đích hơn, đồng thời liên thông dữ liệu, tăng hiệu quả quản lý và hỗ trợ điều trị liên tục.
Vai trò của chuyển đổi số trong phòng chống HIV/AIDS
Chuyển đổi số đang tạo bước ngoặt trong phòng, chống HIV/AIDS, khi công nghệ 4.0 giúp truyền thông trúng đích hơn, đồng thời liên thông dữ liệu, tăng hiệu quả quản lý và hỗ trợ điều trị liên tục. Nhờ vậy, Việt Nam có thêm cơ hội tăng tốc thực hiện mục tiêu 95-95-95, hướng tới chấm dứt đại dịch AIDS vào năm 2030.
Nếu trước đây, truyền thông HIV/AIDS chủ yếu dựa vào tờ rơi, hội thảo hoặc truyền hình, thì ngày nay, mạng xã hội, chatbot, nội dung số và các nền tảng tương tác đã trở thành "cánh tay nối dài" giúp cơ quan chuyên môn tiếp cận đúng đối tượng, đúng nhu cầu và đúng thời điểm.
Những định dạng video ngắn, infographic, podcast hay tư vấn trực tuyến không chỉ giúp thông điệp trở nên dễ tiếp thu, mà còn tạo cảm giác riêng tư, phù hợp với nhóm đối tượng nhạy cảm như MSM, người chuyển giới hay thanh niên thành thị.

Chuyển đổi số góp phần chấm dứt đại dịch AIDS vào năm 2030.
Không dừng ở đó, AI và Big Data đã bắt đầu được ứng dụng để phân tích hành vi trực tuyến, từ đó cá nhân hóa thông điệp truyền thông. Điều này giúp tăng khả năng tiếp cận, bởi mỗi nhóm có đặc điểm riêng về tâm lý, thời điểm hoạt động và mối quan tâm. Thay vì "đánh đồng", truyền thông kỹ thuật số cho phép từng chiến dịch "chạm đúng nỗi lo" của từng nhóm và tạo ra thay đổi hành vi bền vững hơn.
Nhờ vậy, công tác phát hiện sớm – mắt xích đầu tiên trong chuỗi mục tiêu 95-95-95 – được thúc đẩy rõ rệt thông qua các chiến dịch kêu gọi xét nghiệm định kỳ, tiếp cận PrEP hoặc tìm hiểu thông tin PEP qua nền tảng số.
Tại nhiều quốc gia, AI còn đang được thử nghiệm để dự báo ổ dịch, từ đó điều chỉnh thông điệp theo thời gian thực, xu hướng mà Việt Nam hoàn toàn có thể đẩy mạnh trong thời gian tới.
Ở cả ba mục tiêu của chiến lược quốc gia – 95% người nhiễm biết tình trạng của mình; 95% người nhiễm HIV được tiếp cận điều trị; 95% điều trị đạt ức chế tải lượng virus – công nghệ đều đóng vai trò then chốt. Nếu truyền thông số tạo ra tác động ở bước "phát hiện sớm", thì nền tảng dữ liệu lại quyết định hiệu quả ở bước "điều trị đầy đủ", còn telemedicine và ứng dụng nhắc thuốc giúp duy trì "điều trị bền vững".
Ba mắt xích ấy được kết nối bằng chuyển đổi số, giúp rút ngắn khoảng cách, giảm chi phí, giảm kỳ thị và tăng tiếp cận dịch vụ.
Nền tảng số hóa tập trung, giám sát dịch bệnh nhanh chóng
Ngày 23/12/2024, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 3868/QĐ-BYT phê duyệt chương trình chuyển đổi số trong hoạt động phòng chống HIV/AIDS giai đoạn 2025-2030.
Ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong hoạt động phòng chống HIV/AIDS giúp tối ưu hóa quá trình quản lý chuyên môn, giảm chi phí, tăng hiệu quả triển khai công việc. Cụ thể, các cơ sở dữ liệu số hóa sẽ giúp triển khai các hoạt động theo dõi, đánh giá, giám sát một cách hiệu quả, lưu trữ và quản lý thông tin về bệnh nhân, tiến trình điều trị, hỗ trợ phân tích dữ liệu lớn, giúp nhận biết xu hướng và đặc điểm của dịch.
Các ứng dụng di động được phát triển để hỗ trợ người dùng trong việc tiếp cận thông tin, kiểm tra, tự chăm sóc và tham gia tư vấn, khám chữa bệnh từ xa, phát triển các nền tảng cung cấp các khóa học, chương trình tư vấn và giáo dục cho cộng đồng, chương trình đào tạo nhân viên y tế, nâng cao nhận thức, kiến thức về HIV/AIDS.
Phát triển công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo (AI), học máy để dự đoán, cảnh báo ổ dịch, xu hướng dịch giúp cơ quan giám sát dịch đề xuất các biện pháp ứng phó phù hợp hơn.
Đối với tương tác và hỗ trợ cộng đồng trực tuyến, ứng dụng các kỹ thuật số trong tiếp cận nhóm cộng đồng nguy cơ thông qua nền tảng trực tuyến, mạng xã hội tạo môi trường thuận lợi cho cộng đồng người nhiễm HIV, các tổ chức liên quan tương tác, hỗ trợ nhau thuận lợi.
Chuyển đổi số sẽ giúp tăng cường hợp tác, chia sẻ thông tin giữa các quốc gia, nâng cao khả năng phản ứng và hợp nhất nỗ lực chống lại dịch bệnh.
Hiện nay hạ tầng kỹ thuật gồm hệ thống HIV-INFO, HMED/ARD Logbook được duy trì ở mức cơ bản ổn định. Các tỉnh, cơ sở y tế từng bước triển khai, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật hiện đại đáp ứng nhu cầu quản lý, lưu trữ dữ liệu HIV/AIDS. Tối thiểu các hệ thống được bảo vệ bằng tường lửa, các hệ thống quản lý thông tin HIV/AIDS được xây dựng hồ sơ cấp độ về an toàn thông tin theo quy định.
Hiện có 20 thủ tục hành chính, trong đó 5 dịch vụ hành chính công được thực hiện song song ở cả cấp bộ và tỉnh, 15 dịch vụ hành chính công thực hiện cấp tỉnh, trong thời gian đến Cục Phòng chống HIV/AIDS tập trung vào việc quản lý lập kế hoạch và quản lý dự án trên nền tảng số.
Đối với hệ thống quản lý thông tin HIV/AIDS (HIV-INFO) triển khai trên toàn quốc, hiện quản lý hơn 230.000 trường hợp nhiễm HIV, tạo ra một nền tảng số hóa cho việc quản lý dữ liệu tập trung, kết nối, tiếp cận và sử dụng dữ liệu chính xác, hiệu quả. Nhờ vậy công tác báo cáo, quản lý, giám sát dịch đáp ứng y tế công cộng nhanh chóng.
Hệ thống HIV-INFO liên thông dữ liệu với hệ thống quản lý thông tin điều trị ARV quốc gia ARV Logbook để hỗ trợ giám sát dịch dựa trên thông tin theo thời gian của ca bệnh. Trong thời gian đến, hệ thống tiếp tục hoàn thiện các chức năng, tăng cường liên thông, kết nối các hệ thống thông tin khác thực hiện triển khai tới các cơ quan giám sát dịch ở các tuyến trong toàn quốc.
Một thành tựu nữa là phát triển hệ thống thông tin quản lý điều trị khách hàng sử dụng PrEP, quản lý bệnh nhân điều trị ARV, cung ứng thuốc bằng hệ thống phần mềm HMED. Hệ thống phân ra nhiều hệ thống nhỏ với chức năng riêng biệt như quản lý điều trị ARV, quản lý điều trị bệnh nhân HIV đồng nhiễm viêm gan C, quản lý và theo dõi điều trị dự phòng trước phơi nhiễm PrEP, theo dõi quản lý các trường hợp HIV kháng thuốc, quản lý cung ứng và phân phối thuốc, hiện có hơn 500 cơ sở điều trị HIV/AIDS, 250 cơ sở điều trị bệnh nhân HIV đồng nhiễm viêm gan C.
Thành công của công tác chuyển đổi số sẽ góp phần đạt mục tiêu đảm bảo 95% số lượng người nhiễm HIV được quản lý; 100% bệnh nhân HIV đang được điều trị đầu được quản lý tập trung trên nền tảng số; 100% người nhiễm HIV được tích hợp thông tin điều trị, xét nghiệm theo dõi theo thời gian, sử dụng hồ sơ bệnh án điện tử, các dịch vụ phòng chống HIV/AIDS đều được cung cấp trên các nền tảng số; 70% cơ sở điều trị HIV/AIDS triển khai hệ thống khám chữa bệnh từ xa.












