Có nhất thiết phải kiểm định mọi chương trình giáo dục đại học?
Hiện nay số lượng chương trình đào tạo của toàn hệ thống giáo dục đại học lên tới hơn 8.000 bao gồm cả đại học, thạc sĩ và tiến sĩ. Quy định hiện nay về bắt buộc kiểm định và đánh giá ngoài tất cả chương trình đào tạo đang gây quá tải và tốn kém cho các cơ sở giáo dục đại học.
Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) gồm 9 chương và dự kiến 54 điều. Tại chương VI về đảm bảo và kiểm định chất lượng, Dự thảo đề cập, cơ sở giáo dục đại học có trách nhiệm xây dựng, vận hành và phát triển, hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong nhằm bảo đảm phù hợp với quy định pháp luật, các tiêu chuẩn chất lượng trong nước hoặc quốc tế phù hợp với điều kiện thực tế, góp phần thực hiện chiến lược phát triển của nhà trường.

Ảnh minh họa (baochinhphu.vn)
Điều 37 của chương VI nêu rõ về tiêu chuẩn đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục đại học là căn cứ để xác định mức độ đạt được về chất lượng của cơ sở giáo dục đại học và chương trình đào tạo. Tiêu chuẩn đánh giá và kiểm định được xây dựng phù hợp với sứ mạng, chức năng của cơ sở giáo dục đại học, tham chiếu các tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Tiêu chuẩn đánh giá và kiểm định bao gồm: Tiêu chuẩn đối với cơ sở giáo dục đại học và tiêu chuẩn đối với chương trình đào tạo.
Điều 38 của Dự thảo Luật quy định, cơ sở giáo dục đại học và chương trình đào tạo phải được đánh giá chất lượng định kỳ theo tiêu chuẩn do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Hình thức đánh giá chất lượng bao gồm: Tự đánh giá do cơ sở giáo dục tổ chức thực hiện và đánh giá ngoài do tổ chức có năng lực chuyên môn thực hiện.
Về kiểm định giáo dục đại học, Dự thảo Luật nêu rõ, cơ sở giáo dục được quyết định lựa chọn tổ chức kiểm định phù hợp, đáp ứng các yêu cầu: Tổ chức kiểm định trong nước được cơ quan có thẩm quyền cấp phép hoạt động, thực hiện đánh giá ngoài, kiểm định theo tiêu chuẩn do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành hoặc theo bộ tiêu chuẩn do tổ chức kiểm định chất lượng xây dựng phù hợp với khung tiêu chuẩn quốc tế, được Bộ Giáo dục và Đào tạo thẩm định, công nhận và cho phép áp dụng, trên cơ sở tổ chức đó được tổ chức quốc tế có thẩm quyền công nhận; Tổ chức kiểm định nước ngoài có uy tín quốc tế, được công nhận hoạt động tại Việt Nam đánh giá, kiểm định theo tiêu chuẩn quốc tế.
Luật Giáo dục đại học hiện hành đang giao quyền cho các tổ chức kiểm định thực hiện việc tổ chức đánh giá ngoài và thành lập hội đồng để xem xét, công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học. Thực tế cho thấy, cơ chế kiểm định chất lượng giáo dục đại học không có sự thẩm định của cơ quan quản lý nhà nước hoặc tổ chức độc lập làm giảm vai trò, hiệu lực quản lý nước, không bảo đảm mức độ tin cậy của các kết quả đánh giá, công nhận tiêu chuẩn chất lượng.
Hơn nữa, quy định về bắt buộc kiểm định và đánh giá ngoài tất cả chương trình đào tạo gây quá tải và tốn kém cho các cơ sở giáo dục đại học. Việc bắt buộc kiểm định tất cả chương trình đào tạo theo quy định của Luật tạo ra sức ép lớn và chi phí tốn kém đối với các cơ sở giáo dục đại học và gây quá tải cho hệ thống tổ chức kiểm định. Sự mất cân đối giữa năng lực của các tổ chức kiểm định với nhu cầu kiểm định của các cơ sở giáo dục đại học cũng tạo ra những hệ lụy như tính hình thức, đối phó và dẫn tới làm mất đi hiệu quả tích cực của công tác kiểm định chất lượng.
Những nội dung mới của Dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), trong đó có nội dung về đảm bảo và kiểm định chất lượng sẽ trình Quốc hội và dự kiến được thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV vào tháng 10 năm nay.
Kiểm định chất lượng là xương sống của giáo dục đại học
Kiểm định chất lượng giáo dục là cơ sở để xác định các tiêu chuẩn về chất lượng đào tạo và dịch vụ giáo dục của các trường đại học. Vậy, trong Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), nội dung cần được điều chỉnh và hoàn thiện ra sao?
Phóng viên Kênh VOV đã có cuộc trao đổi cùng đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, Ủy viên Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội.
PV: Thưa đại biểu, việc bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học mang ý nghĩa quan trọng ra sao?
Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga: Đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục bao giờ cũng là xương sống của giáo dục đại học hiện đại. Không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nước tiên tiến trên thế giới cũng đã tập trung vào việc kiểm định chất lượng. Đây là công cụ để đánh giá mức độ đạt chuẩn của cơ sở đào tạo đại học và chương trình đào tạo, từ đó giúp Nhà nước quản lý hiệu quả và xã hội giám sát được sâu sát, minh bạch hơn và người học có cơ sở để lựa chọn đúng đắn để chọn ngành, trường nào để học.
Thông qua cơ chế đảm bảo và kiểm định chất lượng, chúng ta sẽ thúc đẩy văn hóa cải tiến liên tục trong các cơ sở giáo dục đào tạo, tránh sự trì trệ, lạc hậu, khuyến khích sự cạnh tranh lành mạnh dựa trên chất lượng. Khi kết quả kiểm định được công nhận và tin cậy thì bằng cấp và năng lực của sinh viên Việt Nam sẽ có giá trị cao hơn trong thị trường lao động trong nước và quốc tế - đây hiện vẫn đang là điểm yếu của chúng ta. Kiểm định chất lượng không chỉ là tờ giấy chứng nhận mà là cam kết của nhà trường đối với người học và đối với xã hội.
PV: Vậy, Đại biểu có những đóng góp ra sao đối với cơ chế bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học trong Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) nhằm giúp quản lý nhà nước hữu hiệu hơn về vấn đề này?

Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga
Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga: Thứ nhất là hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của mỗi cơ sở giáo dục đại học cần được luật hóa rõ ràng hơn, đây phải được coi là điều kiện bắt buộc để được phép đào tạo, có như vậy thì việc kiểm định bên ngoài mới có cơ sở đáng tin cậy.
Thứ hai là cần phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của tổ chức kiểm định chất lượng, tổ chức kiểm định phải độc lập, minh bạch, có uy tín, tránh tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”.
Thứ ba là cơ chế giám sát của Nhà nước phải đủ mạnh, Bộ Giáo dục và Đào tạo phải có trách nhiệm ban hành quy chuẩn thẩm định và giám sát hoạt động kiểm định đồng thời trong hoạt động kiểm định cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, cơ sở dữ liệu quốc gia để nâng cao tính minh bạch và khả năng truy xuất thông tin.
Những đóng góp này tôi muốn hướng đến một hệ thống kiểm định mà ở đó kết quả đánh giá thực sự phản ánh đúng chất lượng để tạo niềm tin cho xã hội và có được sự đánh giá đúng đắn nhất với các cơ sở giáo dục đại học.
PV: Nếu được Quốc hội thông qua, theo đại biểu, những nội dung mới của Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) sẽ có ý nghĩa ra sao trong thực tiễn?
Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga: Nếu được Quốc hội thông qua, Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) sẽ đem lại những tác động tích cực, đặc biệt là những nội dung được đông đảo cử tri và những người làm trong ngành giáo dục quan tâm như việc mở rộng quyền tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học. Điều này giúp các cơ sở giáo dục đại học năng động hơn trong khâu tổ chức đào tạo, trong nghiên cứu đào tạo và hợp tác quốc tế. Thứ hai là nội dung về cơ chế đảm bảo và kiểm định chất lượng khi được điều chỉnh sẽ giúp kiểm định được nâng lên tầm mới, góp phần tạo lập được niềm tin xã hội, tăng uy tín của bằng cấp Việt Nam và thúc đẩy hội nhập quốc tế. Thứ ba là chính sách tài chính, đầu tư cùng với khuyến khích đầu tư ngoài ngân sách sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho hệ thống giáo dục đại học phát triển đồng đều, thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền.
PV: Vâng. Xin cảm ơn đại biểu!
Giảm bớt kiểm định ở một số lĩnh vực
Quá trình kiểm định chất lượng chính là cơ sở để đánh giá và cải tiến các hoạt động giáo dục, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững và lâu dài cho hệ thống giáo dục đại học.
Phóng viên VOV đã có cuộc trao đổi cùng GS.TS Nguyễn Quý Thanh, Hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục, ĐH Quốc gia Hà Nội về những đóng góp cho nội dung này trong Luật Giáo dục ĐH (sửa đổi):
PV: Theo ông, trong Luật Giáo dục Đại học (sửa đổi), có nhất thiết phải kiểm định mọi chương trình giáo dục Đại học?
GS.TSNguyễn Quý Thanh: Trong Dự thảo Luật đã đề cập việc phải đảm bảo chất lượng từ bên trong là đúng rồi, tuy nhiên, nếu không có cơ chế đánh giá toàn bộ quy trình hoạt động của cơ chế đảm bảo chất lượng thì có thể dẫn tới sự buông lỏng bởi vì thông thường các cơ sở giáo dục đại học cũng như các nhà khoa học thường khá tự tin về chất lượng sản phẩm của mình, nhưng cái tự tin đó phải đặt trong một cơ chế giám sát thường xuyên. Dự thảo Luật điều chỉnh về kiểm định chất lượng cần cân nhắc kỹ vì giáo dục đại học Việt Nam chưa phát triển tới mức để chúng ta có thể buông kiểm định chất lượng hoàn toàn.
Theo quan điểm của tôi, có thể làm giảm bớt tải trọng kiểm định ở một số lĩnh vực nhưng với một số lĩnh vực vẫn phải bắt buộc yêu cầu kiểm định. Thứ 2 là yêu cầu kiểm định tất cả các chương trình mà sau này ra làm việc phải có giấy phép hành nghề vì nó liên quan đến chất lượng mặt bằng lao động; hoặc các lĩnh vực mà Nhà nước đặt hàng như đào tạo giáo viên cũng cần phải kiểm định.

GS.TS Nguyễn Quý Thanh
PV: Ông có kỳ vọng gì vào những nội dung mới của dự thảo Luật khi được điều chỉnh và chính thức ban hành?
GS.TS Nguyễn Quý Thanh: Luật Giáo dục Đại học (sửa đổi) hiện nay đang dự thảo là tiếp nối của những đổi mới giáo dục đại học từ 2012, 2018. Khi nó được ban hành sẽ tạo “cú huých” để tiếp tục nhảy thêm các bước đột phá cho giai đoạn hiện nay. Tôi kỳ vọng là cơ chế hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học sẽ được tạo thêm những điều kiện thuận lợi mới, hình hài và định vị của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam trong giáo dục đại học thế giới sẽ tốt hơn.
PV: Vâng, xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi này.
Trong bối cảnh các cơ sở giáo dục đại học được đề cao quyền tự chủ thì vai trò của Nhà nước trong việc kiểm định chất lượng giáo dục đại học càng vô cùng quan trọng. Tuy Nhà nước tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đại học “tự chủ” nhưng không vì thế mà buông lỏng công tác quản lý mà ngược lại, cần có sự kiểm soát chặt chẽ hơn với chất lượng giáo dục đại học.