Công nghiệp hỗ trợ cơ khí – điện cho ngành đường sắt đô thị

Các doanh nghiệp cơ khí – điện được khuyến khích đầu tư công nghệ, liên kết đối tác để tham gia cung ứng thiết bị, dịch vụ cho các tuyến metro trong quy hoạch đường sắt đô thị TP. Hồ Chí Minh.

Ngày 24/10, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh (ITPC) phối hợp cùng Hội Doanh nghiệp Cơ khí - Điện TP. Hồ Chí Minh (HAMEE) tổ chức Hội thảo chuyên đề “Công nghiệp hỗ trợ cơ khí – điện cho ngành đường sắt đô thị”.

Hội thảo nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận thông tin về các dự án đầu tư công của TP. Hồ Chí Minh, đặc biệt là dự án đường sắt đô thị, nắm bắt sự hỗ trợ từ Nhà nước và chính quyền để có sự chuẩn bị kỹ càng, tận dụng tốt các ưu thế, qua đó đóng góp vào sự phát triển chung của ngành.

Đại diện Sở Xây dựng TP. Hồ Chí Minh phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Anh Tuấn - TTXVN

Đại diện Sở Xây dựng TP. Hồ Chí Minh phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Anh Tuấn - TTXVN

Chia sẻ về quy hoạch phát triển hệ thống đường sắt đô thị của thành phố cũng như tiến độ thực hiện các dự án và cơ chế - chính sách, ông Nguyễn Vĩnh Toàn, Phó Giám đốc Sở Xây dựng TP. Hồ Chí Minh cho biết, quy hoạch mạng lưới đường sắt đô thị TP. Hồ Chí Minh mới có tổng chiều dài khoảng 1.012 km; trong đó, khu vực TP. Hồ Chí Minh (cũ) có 12 tuyến, dài khoảng 582 km. Ngoài ra, quy hoạch cũng bao gồm 12 tuyến tại tỉnh Bình Dương (cũ) dài khoảng 305 km và 3 tuyến tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (cũ) dài 125 km. Tuyến đường sắt Thủ Thiêm – Long Thành (dài gần 42 km) đang được Thủ tướng Chính phủ xem xét giao UBND Thành phố là cơ quan chủ quản và bổ sung vào quy hoạch đường sắt đô thị của thành phố và tỉnh Đồng Nai.

Ngày 19/02/2025, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 188/2025/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt phát triển hệ thống mạng lưới đường sắt đô thị tại thành phố Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Nghị quyết 188 được kỳ vọng là bước đột phá về thể chế, tháo gỡ các điểm nghẽn và khó khăn trong quá trình triển khai dự án.

Theo ông Nguyễn Vĩnh Toàn, việc vận dụng cơ chế đặc thù của Nghị quyết số 188 đã giúp công việc triển khai nhanh hơn, rút ngắn đáng kể thời gian và giảm thủ tục. Điển hình là việc điều chỉnh thời gian thực hiện dự án tuyến Metro số 1 (giảm từ 3 đến 6 tháng) và chỉ định thầu tư vấn tuyến metro số 2 (giảm tối thiểu khoảng 12 tháng so với phương án đấu thầu quốc tế trước đây). Đặc biệt, dự án được bỏ qua bước lập, thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư (giảm từ 3-5 năm) và được lập ngay bước Báo cáo nghiên cứu khả thi.

Ông Nguyễn Vĩnh Toàn cho biết: TP. Hồ Chí Minh đang khẩn trương rà soát tổng thể quy hoạch mạng lưới đường sắt đô thị, vận dụng tối đa các cơ chế, chính sách đặc thù từ Nghị quyết số 188, xây dựng kế hoạch, lộ trình đầu tư, từ đó giải quyết kịp thời các vấn đề thực tiễn phát sinh, phù hợp với không gian và tầm nhìn phát triển mới.

Hiện nay, có nhiều nhà đầu tư khối doanh nghiệp tư nhân quan tâm đầu tư hệ thống đường sắt đô thị tại TP. Hồ Chí Minh như Tập đoàn Vingroup quan tâm đầu tư tuyến đường sắt đô thị kết nối trung tâm TP. Hồ Chí Minh đi huyện Cần Giờ bằng hình thức đầu tư trực tiếp theo quy định của Luật đầu tư; Tập đoàn Trường Hải cùng đối tác Công ty Hyundai Rotem quan tâm tham gia đầu tư, xây dựng tuyến metro số 2 đoạn Bến Thành – Tham Lương, đoạn Bến Thành – Thủ Thiêm và đoạn Thủ Thiêm – Long Thành; Tập đoàn Sovico quan tâm nghiên cứu tuyến đường sắt đô thị số 4... Hiện thành phố đã có chủ trương giao nhà đầu tư nghiên cứu dự án và tiếp tục hướng dẫn trình tự, thủ tục các nhà đầu tư quan tâm đầu tư đường sắt đô thị.

Theo bà Hồ Thị Quyên, Phó Giám đốc ITPC, hệ thống metro có đặc tính ưu việt vượt trội, đem lại nhiều lợi ích giúp chống ùn tắc giao thông. Metro đạt lượng vận chuyển cao gấp 6-10 lần xe buýt, 2-3 lần tàu điện mặt đất và gấp 60-100 lần ô tô cá nhân. Metro được trang bị hệ thống kỹ thuật tiên tiến, hoạt động trong không gian độc lập, cung cấp dịch vụ vận tải chất lượng và đảm bảo các tiêu chí: nhanh, rẻ, đúng giờ, an toàn, tiện nghi và tin cậy.

Ngoài ra, hệ thống metro có thể được xem là phương tiện giao thông xanh, sạch nhất cho môi trường do chủ yếu sử dụng năng lượng điện.

Tuy nhiên, việc thiết lập mạng lưới metro cho siêu đô thị như TP. Hồ Chí Minh đòi hỏi vốn đầu tư đặc biệt lớn về tài chính, khoa học công nghệ, cũng như xác định giải pháp tối ưu về thiết kế, quản lý dự án và tổ chức vận hành. Trong bối cảnh đó, sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngành cơ khí, công nghệ số, điện – điện tử... có vai trò quan trọng.

Quang cảnh hội thảo. Ảnh: Anh Tuấn - TTXVN

Quang cảnh hội thảo. Ảnh: Anh Tuấn - TTXVN

Dưới góc độ doanh nghiệp, ông Trần Thành Trọng, Phó Chủ tịch, Trưởng Ban Đối thoại Chính sách HAMEE) cho rằng, đường sắt đô thị là dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia, góp phần hoàn thiện mạng lưới giao thông công cộng, giảm áp lực cho hạ tầng đường bộ và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đây còn là biểu trưng cho năng lực công nghiệp và trình độ công nghệ của Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Từ thực tiễn của ngành hiện nay, ông Trần Thành Trọng cho rằng, các doanh nghiệp cơ khí, điện – điện tử của Việt Nam hoàn toàn có khả năng cung cấp dịch vụ lắp đặt hệ thống phụ trợ cho đường sắt đô thị như: toàn bộ hệ thống cấp nguồn điện, hệ thống máy phát điện dự phòng, hệ thống thông gió, hệ thống điều khiển tự động ngoại vi, hệ thống phòng cháy chữa cháy và thang máy. Đối với các thiết bị khác như toa xe, đường ray, các đơn vị tham gia cần phải có sự phối hợp và đầu tư ngay từ bây giờ.
Theo ông Trần Thành Trọng, để nắm bắt cơ hội, bản thân doanh nghiệp cần đầu tư chiều sâu về công nghệ, chuẩn hóa quy trình, phát triển nhân lực chất lượng cao và tăng cường liên kết với các nhà thầu, đối tác quốc tế, hướng tới hình thành chuỗi cung ứng nội địa cho hệ thống ngành đường sắt. Cần có các doanh nghiệp lớn đầu tư, dẫn dắt các doanh nghiệp nhỏ để tạo thành chuỗi cung ứng liên kết và những doanh nghiệp này phải ưu tiên sử dụng các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà trong nước có thể sản xuất, cung cấp.
Từ thực tiễn, HAMEE cũng đề nghị các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là Ban Quản lý dự án Đường sắt đô thị TP. Hồ Chí Minh, quan tâm hơn đến việc sử dụng các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ trong các hạng mục của đường sắt đô thị được sản xuất, cung cấp tại nội địa. Quá trình này sẽ giảm chi phí đầu tư, chi phí vận hành, bảo trì và tăng tính tự chủ cho đất nước và quan trọng hơn, tạo tiền đề để công nghiệp đường sắt hiện đại Việt Nam phát triển. Đối với các hạng mục bắt buộc phải sử dụng thiết bị nhập ngoại, cần có quy định lộ trình chuyển giao công nghệ sản xuất, vận hành và bảo trì cho Việt Nam.

Anh Tuấn/vnanet.vn

Nguồn Bnews: https://bnews.vn/cong-nghiep-ho-tro-co-khi-dien-cho-nganh-duong-sat-do-thi/393054.html