Cú sốc thuế Mỹ: Thức tỉnh để thoát khỏi thế bị động
'Cơn lốc thuế quan' từ Mỹ đang khuấy đảo dòng chảy thương mại toàn cầu - đây chính là thời điểm doanh nghiệp Việt cần tái cấu trúc nền tảng, hành động linh hoạt và vững vàng hơn.
Sau khi Mỹ tạm hoãn áp thuế đối ứng 90 ngày và giảm mức thuế từ 46% xuống 10%, nhiều doanh nghiệp Việt đã nhanh chóng tận dụng thời cơ đẩy mạnh sản xuất đơn hàng xuất khẩu. Ông Phạm Quang Anh, Giám đốc Công ty May mặc Dony, cho biết doanh nghiệp đã khôi phục đơn hàng từ đối tác Mỹ và đang gấp rút sản xuất để kịp giao vào tháng 7.
Tình cảnh bị động trước biến động thuế từ Mỹ không chỉ riêng Dony, mà là thách thức chung của nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhờ chủ động đa dạng hóa thị trường sang Nga, Trung Đông, Đông Nam Á, châu Phi và mở rộng thị trường nội địa, Dony vẫn duy trì được tăng trưởng.
Vấn đề đặt ra là khi thời gian ‘vàng’ 90 ngày sắp tới hạn, các doanh nghiệp sẽ phải làm gì để thích ứng?
“Không cách nào khác, các doanh nghiệp Việt Nam phải tìm cách thay thế nhập khẩu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, rồi phân tán thị trường xuất khẩu, không phụ thuộc vào Mỹ nhiều”, GS Trần Văn Thọ, ĐH Waseda (Nhật Bản) nói trong chuyến về thăm Việt Nam gần đây.
“Nội lực” doanh nghiệp trong nước khá yếu
Ông Thọ nhận định, kinh tế thế giới đang trải qua giai đoạn nhiều biến động và bất định. Trong bối cảnh đó, Việt Nam với độ mở lớn và mức độ hội nhập sâu càng dễ chịu tác động từ bên ngoài.
Theo ông, hội nhập là xu thế tất yếu và mang lại nhiều lợi ích. Tuy nhiên, với một quốc gia đông dân như Việt Nam, tỷ lệ hội nhập quá cao cũng cho thấy điểm yếu nội tại: sức tiêu dùng trong nước còn hạn chế, khiến nền kinh tế phụ thuộc lớn vào thị trường và biến động toàn cầu.
Dẫn chứng, ông cho biết khu vực FDI hiện chiếm hơn 50% sản lượng công nghiệp và hơn 70% kim ngạch xuất khẩu. Không chỉ các sản phẩm công nghệ cao như điện thoại, máy tính… phải nhập linh kiện từ nước ngoài, mà ngay cả ngành may mặc, da giày cũng lệ thuộc nhiều vào nguyên liệu, sợi và vải nhập khẩu.
Không chỉ phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, doanh nghiệp nội địa còn hạn chế trong việc liên doanh, liên kết với doanh nghiệp nước ngoài, trong khi ngành công nghiệp hỗ trợ vẫn chưa phát triển đúng mức. Điều này khiến năng lực nội tại yếu và chưa tận dụng được hiệu ứng lan tỏa từ dòng vốn FDI.
GS Trần Văn Thọ ước tính Việt Nam hiện có khoảng 200.000 doanh nghiệp công nghiệp, nhưng chỉ khoảng 3.500 doanh nghiệp tham gia sản xuất công nghiệp hỗ trợ – một tỷ lệ rất thấp.
Đáng chú ý, tỷ lệ doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu cũng chỉ đạt khoảng 18%, thấp hơn cả Campuchia với mức 30%.

Các doanh nghiệp Việt Nam cần sớm thay đổi với nền tảng vững chắc, chiến lược linh hoạt. Ảnh: Q.H
Thay đổi cách tiếp cận
GS Trần Văn Thọ chia sẻ, ông từng nhiều lần đề cập đến vấn đề cơ cấu kinh tế “hai tầng” của Việt Nam: một bên là khu vực FDI, một bên là doanh nghiệp trong nước – nhưng hai khu vực này hầu như không liên kết với nhau.
Theo ông, nguyên nhân lớn nằm ở chỗ doanh nghiệp trong nước chưa thực sự được nuôi dưỡng đủ mạnh. Trong khi đó, các quốc gia như Nhật Bản có chính sách rất hiệu quả hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hàn Quốc và Trung Quốc đã học hỏi mô hình này và linh hoạt áp dụng để phát triển khu vực doanh nghiệp nội địa rất thành công. Ông đặt câu hỏi: “Tại sao Việt Nam lại không học được?”
Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay – khi Mỹ dưới thời Tổng thống Donald Trump áp thuế đối ứng lên Việt Nam và nhiều nước khác – liệu cú sốc này có thể khiến chúng ta tỉnh ngộ và thay đổi cách tiếp cận?
Vấn đề thứ hai, theo GS Trần Văn Thọ, nằm ở cơ cấu xuất – nhập khẩu hiện tại của Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tương đương 180% GDP – con số cho thấy mức độ mở cửa rất cao.
Tuy nhiên, đi sâu vào chi tiết, có thể thấy xuất khẩu của Việt Nam đang phụ thuộc quá lớn vào thị trường Mỹ. Tính chung, Mỹ chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu; riêng nhóm hàng tiêu dùng chiếm tới 40%, trong đó mặt hàng may mặc vượt hơn 50%.
Ở chiều ngược lại, Việt Nam lại phụ thuộc vào Trung Quốc và Hàn Quốc để nhập khẩu nguyên liệu đầu vào. Cơ cấu thương mại hiện nay có thể hình dung như một “tam giác Thái Bình Dương”: một góc là Trung Quốc – Hàn Quốc (nguồn nguyên liệu), một góc là Việt Nam (gia công, lắp ráp), và góc còn lại là Mỹ (thị trường tiêu thụ).
“Cơ cấu này không ổn định, nó bất ổn. Tuy mình buôn bán, giao thương hàng trăm nước, nhưng lại quá tập trung vào một số nước”, ông nhấn mạnh.
“Trước giờ, mô hình xuất nhập khẩu như vậy không có vấn đề gì. Nhưng bây giờ tôi hy vọng trong ngắn hạn chúng ta sẽ điều chỉnh. Việt Nam phải tìm cách thay thế nhập khẩu từ Trung Quốc, Hàn Quốc, rồi phân tán thị trường xuất khẩu, không phụ thuộc vào Mỹ nhiều”, ông Thọ kỳ vọng.
Về lâu về dài, nhân cơ hội Bộ Chính trị ban hành nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân, ông Thọ cho rằng phải quyết tâm đưa nghị quyết vào cuộc sống, thành chính sách.
Cơ hội để chuyển dịch
Theo GS Trần Văn Thọ, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do với các đối tác lớn như EU, ASEAN và các nước trong khu vực Thái Bình Dương, tạo ra cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp trong nước vẫn chưa tận dụng tốt các lợi thế này. Ông nhấn mạnh, thời gian tới, doanh nghiệp Việt cần chủ động phân tán thị trường, đặc biệt chú trọng khu vực ASEAN và Ấn Độ.
Về vốn và công nghệ, Nhật Bản là một đối tác tiềm năng. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Nhật tích lũy được công nghệ cao và mong muốn hợp tác với Việt Nam. Tuy nhiên, do cơ chế trong nước còn thiếu thông thoáng, khả năng thu hút và liên doanh vẫn bị hạn chế.
“Khả năng hợp tác với doanh nghiệp nhỏ và vừa Nhật Bản là rất lớn. Họ có công nghệ nhưng thiếu nhân lực kế thừa. Nếu Việt Nam có chính sách phù hợp, hoàn toàn có thể tiếp nhận công nghệ và kinh nghiệm từ họ,” ông Thọ phân tích.
Bên cạnh đó, ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển thị trường nội địa. Khi nền kinh tế đủ mạnh từ bên trong, Việt Nam sẽ giảm thiểu được tác động tiêu cực từ các biến động bất định của kinh tế toàn cầu.