Đã có hành lang pháp lý cơ bản để quản lý, vận hành thị trường carbon trong nước
Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho hay, đến nay đã cơ bản hình thành hành lang pháp lý cần thiết để quản lý, vận hành thị trường carbon trong nước. Ngay trong năm 2025, dự kiến Chính phủ sẽ ban hành 3 nghị định về vấn đề này.

Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng phát biểu giải trình vấn đề đại biểu Quốc hội nêu. (Ảnh: DUY LINH)
Công tác bảo vệ môi trường chuyển biến rõ nét
Chiều 28/10, thay mặt Chính phủ, Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng đã phát biểu giải trình một số vấn đề đại biểu nêu tại Phiên thảo luận về Báo cáo của Đoàn Giám sát và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về kết quả giám sát chuyên đề “việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”.
Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đánh dấu bước tiến quan trọng trong tư duy và phương thức phát triển bền vững của Việt Nam. Đây không chỉ là khuôn khổ pháp lý về kỹ thuật quản lý môi trường, mà còn khẳng định tinh thần đổi mới, trách nhiệm và hành động vì tương lai xanh của đất nước.
Luật đã thiết kế nhiều chính sách mới mang tính đột phá, thể hiện sự chuyển hướng rõ ràng từ cách tiếp cận, quản lý thụ động, xử lý hậu quả sang chủ động phòng ngừa, kiểm soát rủi ro và thúc đẩy phát triển bền vững, từ quản lý bằng các công cụ hành chính, sang quản lý bằng các công cụ kinh tế theo thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Sau gần 4 năm triển khai Luật Bảo vệ môi trường, công tác bảo vệ môi trường đã có chuyển biến rõ nét trên cả ba phương diện thể chế, nhận thức và tổ chức thực hiện. Nhiều cơ chế chính sách mới đã được áp dụng và bước đầu phát huy hiệu quả.

Đại biểu tham dự phiên họp. (Ảnh: DUY LINH)
Thực tiễn triển khai đã ghi nhận những kết quả tích cực, nhiều mô hình phát triển xanh, đô thị sinh thái và khu công nghiệp tuần hoàn được hình thành. Việc ứng dụng công nghệ số và hệ thống quan trắc tự động trong giám sát nguồn thải, quan trắc chất lượng môi trường được mở rộng.
Chất lượng môi trường ở nhiều khu vực đã được cải thiện. Nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài nhiều năm đã được xử lý căn bản. Nhận thức và hành động của toàn xã hội về bảo vệ môi trường đã có chuyển biến rõ rệt, khẳng định sự đồng thuận và quyết tâm chung trong việc coi bảo vệ môi trường là trách nhiệm và quyền lợi của mọi người dân.
Bộ trưởng khẳng định, các chỉ tiêu môi trường đã nêu trong Báo cáo của Đoàn giám sát so với mốc thời gian năm 2020 và trước đó đã cho thấy, có sự cố gắng rất lớn của cả hệ thống chính trị.

Quang cảnh phiên họp. (Ảnh: DUY LINH)
Điển hình như tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị tăng từ 94,71% năm 2020 lên 97,28% năm 2024. Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung tăng từ 89,47% năm 2020 lên 95,37% năm 2025.
Tỷ lệ cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung tăng từ 17,2% năm 2020 đến 31,5% năm 2024. Tỷ lệ nước thải sinh hoạt đô thị được xử lý tăng từ 14% năm 2020 đến 18% năm 2024. Số lượng cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chưa được xử lý đã giảm từ 83 cơ sở năm 2020 xuống còn 38 cơ sở vào năm 2025…
Những kết quả trên đã góp phần quan trọng và việc nâng cao vị thế của Việt Nam trên bản đồ phát triển bền vững toàn cầu. Mức độ xếp hạng của Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể với thứ hạng 54/166 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng 34 bậc so với năm 2016 và đứng thứ hai trong khu vực ASEAN.
4 nhiệm vụ trọng tâm, đột phá trong công tác bảo vệ môi trường

Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng phát biểu giải trình vấn đề đại biểu Quốc hội nêu. (Ảnh: DUY LINH)
Bộ trưởng Trần Đức Thắng cũng báo cáo làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm. Trong đó, về quản lý rác thải sinh hoạt, rác thải nhựa, Bộ trưởng cho biết, hiện nay, mỗi năm Việt Nam phát sinh khoảng 25,3 triệu tấn, trong đó có khoảng 1,8 triệu tấn chất thải nhựa đã tạo ra áp lực, thách thức rất lớn cho hạ tầng thu gom, phân loại và xử lý. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nỗ lực, song vẫn còn một số tồn tại hạn chế trong công tác này như ý kiến đại biểu Quốc hội đã nêu.
Đối với vấn đề ô nhiễm môi trường không khí, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã trình Thủ tướng Chính phủ Kế hoạch hành động quốc gia về khắc phục ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2026-2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó đã đề xuất một số giải pháp như hoàn thiện thể chế chính sách về kiểm soát chặt chẽ các nguồn phát thải chính, về nâng cao năng lực quan trắc kiểm kê phát thải cảnh báo, dự báo; về chuyển đổi phương tiện giao thông xanh; về truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng; về thanh tra, kiểm tra giám sát việc chấp hành pháp luật…
Về vấn đề phát triển thị trường carbon trong nước, Bộ trưởng Trần Đức Thắng khẳng định, đến nay đã cơ bản hình thành hành lang pháp lý cần thiết để quản lý vận hành. Ngay trong năm 2025, dự kiến Chính phủ sẽ ban hành 3 nghị định về vấn đề này và tiếp tục nghiên cứu xây dựng quy định các chính sách về thuế, phí, lệ phí liên quan giao dịch hạn ngạch, phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon, công bố các tiêu chuẩn tín chỉ carbon, phương pháp tạo tín chỉ carbon để tạo cơ sở cho các doanh nghiệp đăng ký triển khai các dự án tín chỉ carbon nội địa.

Đại biểu tham dự phiên họp. (Ảnh: DUY LINH)
Bên cạnh kết quả đạt được, Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng thắng nhìn nhận những tồn tại, hạn chế trong công tác bảo vệ môi trường như Báo cáo giám sát và đại biểu Quốc hội đã chỉ ra. Đó là tình trạng suy thoái môi trường vẫn diễn biến phức tạp, có xu hướng mở rộng ở một số khu vực.
Công tác bảo vệ môi trường tuy có chuyển biến nhưng còn chậm so với kỳ vọng của nhân dân và yêu cầu của Đảng, Nhà nước. Ô nhiễm không khí tại các đô thị vẫn diễn biến phức tạp, đặc biệt là tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Ô nhiễm một số lưu vực sông chưa được giải quyết triệt để. Hạ tầng thu gom xử lý chất thải rắn còn hạn chế, thiếu đồng bộ…
Bộ trưởng Trần Đức Thắng khẳng định, trên cơ sở những kết quả đạt được, bài học kinh nghiệm và yêu cầu trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định tập trung triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm, nhằm hướng tới mục tiêu bảo đảm môi trường trong lành, sinh thái bền vững, vì sức khỏe và tương lai của người dân Việt Nam:
Thứ nhất, đột phá về thể chế chính sách pháp luật, trong đó trọng tâm là kinh tế hóa môi trường, tạo động lực cho phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế carbon thấp; cải cách hành chính, tháo gỡ điểm nghẽn về đầu tư… đã được Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhận diện, chủ động đề xuất trình Quốc hội thông qua ngay tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV.

Bộ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng phát biểu giải trình vấn đề đại biểu Quốc hội nêu. (Ảnh: DUY LINH)
Thứ hai, đột phá về quản lý chất thải, huy động nguồn lực để xử lý dứt điểm các điểm nóng về ô nhiễm, trong đó trọng tâm là giải quyết dứt điểm các điểm nghẽn đã được nhận diện về xử lý chất thải rắn sinh hoạt; tận dụng tối đa giá trị tài nguyên của chất thải; thúc đẩy kinh tế tuần hoàn; có chính sách và lộ trình hợp lý trong việc thực hiện phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại hộ gia đình.
Thứ ba, đột phá về khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, hoàn thiện hạ tầng và công nghệ giám sát môi trường. Trọng tâm là đầu tư xây dựng, hiện đại hóa các hệ thống quan trắc, cảnh báo môi trường tự động, liên tục và tích hợp dữ liệu số hóa, bảo đảm tính minh bạch, kịp thời trong cung cấp thông tin, phục vụ quản lý và giám sát của cộng đồng. Xây dựng hệ thống sàn giao dịch carbon trong nước, vận hành thử nghiệm ngay từ cuối năm 2025. Vận hành hệ thống đăng ký quốc gia về hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon.
Thứ tư, đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân, năng lực thực hiện chính sách pháp luật của cán bộ các cơ quan nhà nước. Trọng tâm là đưa nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân, đa dạng hóa và đẩy mạnh các chiến dịch truyền thông thường xuyên, liên tục, lâu dài và có chiều sâu, nhằm thay đổi hành vi, nâng cao ý thức, trách nhiệm về bảo vệ môi trường. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong quản lý môi trường tinh thông về nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu đặt ra của nhiệm vụ, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ công chức cấp xã.












