Đảm bảo tính khách quan và khoa học khi áp Thuế tiêu thụ đặc biệt với nước giải khát có đường
Tiếp tục phiên họp thứ 46, ngày 4/6, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi).

Quang cảnh phiên họp
Tại Phiên họp, ông Hoàng Thanh Tùng, Chủ nhiệm Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội đề nghị giải trình rõ với Quốc hội cơ sở khoa học của việc phải đánh thuế tiêu thụ đặc biệt với nước giải khát có đường.
Báo cáo giải trình, Thứ trưởng Bộ Tài chính Cao Anh Tuấn thông tin, đối với nước giải khát có đường, chỉ trong vòng 10 năm, từ năm 2012 mới chỉ có 15 quốc gia áp thuế tiêu thụ đặc biệt, nhưng đến nay, đã có 107 quốc gia và vùng lãnh thổ áp dụng loại thuế này. Mức thuế phổ biến là từ 20 - 40% và đây cũng là quan điểm mà Bộ Y tế và các tổ chức liên quan đến bảo vệ sức khỏe kiên quyết ủng hộ.
Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, dự thảo chỉ thiết kế ở mức 8% - 10%, lùi thời hạn áp dụng đến năm 2027. Ông cho rằng, đây là mức rất hợp lý so với khu vực và thế giới, để bước đầu tăng dần nhận thức, giảm sử dụng nước giải khát có đường.
Trước đó, tại Kỳ họp thứ 9, phiên Thảo luận của Quốc hội về Dự thảo luật thuế TTĐB (sửa đổi) ngày 9/5/2025, Dự thảo mới nhất đã sửa đổi đề xuất bổ sung mặt hàng nước giải khát theo Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) có hàm lượng đường trên 5g/100 ml vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) với mức thuế 8% vào năm 2027 và 10% từ năm 2028. Quy định đưa ra nhằm hạn chế tiêu dùng do lo ngại sử dụng sản phẩm sẽ có hại cho sức khỏe người sử dụng. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều ý kiến của các đại biểu Quốc hội băn khoăn khi chưa có đủ cơ sở khoa học, thực tiễn, đánh giá toàn diện, tham khảo kinh nghiệm quốc tế cũng như đảm bảo tính công bằng khi áp thuế đối với nước giải khát có đường và kiến nghị cần cân nhắc kỹ lưỡng và có lộ trình áp thuế phù hợp đối với mặt hàng mới như nước giải khát có đường.
Theo Đại biểu Cầm Thị Mẫn – Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa, mặc dù đại biểu tán thành với việc quy định lộ trình áp thuế đối với mặt hàng mới nhưng cần có đánh giá tác động đầy đủ khi mà mặt hàng nước giải khát có đường là mặt hàng có mối liên hệ đến hơn 20 ngành liên quan trong chuỗi giá trị, như ngành hàng bán lẻ, du lịch, nhà hàng, khách sạn và hàng trăm ngàn hộ nông dân trồng mía, công ty sản xuất đường.
Đại biểu Nguyễn Thị Thu Dung – Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Bình rất băn khoăn trong bối cảnh nền kinh tế đang chịu nhiều áp lực từ bên ngoài và còn nhiều bất ổn ở khu vực tiêu dùng và dịch vụ thì việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt với nước giải khát có đường cần phải được cân nhắc thấu đáo và dựa trên các đánh giá toàn diện. Đại biểu cũng rất trăn trở về việc chưa có cơ sở khoa học vững chắc để khẳng định rằng nước giải khát có đường là nguyên nhân chính và duy nhất gây ra tình trạng thừa cân, béo phì...
Bên cạnh đó, nhiều báo cáo cũng chỉ ra rằng, chưa có đủ cơ sở khoa học chứng minh nước giải khát có đường là nguyên nhân chính của bệnh thừa cân béo phì, tiểu đường và việc áp thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường hiệu quả trong việc kiểm soát bệnh thừa cân béo phì và tiểu đường.
Cụ thể, theo các tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Bộ Y tế tại Quyết định số 2892/QĐ-BYT ngày 22/10/2022 đã chỉ ra rằng thừa cân béo phì (TCBP) do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm (i) chế độ dinh dưỡng không hợp lý, không chỉ đến từ việc tiêu thụ các thực phẩm giàu năng lượng bao gồm các thực phẩm giàu chất béo, chất đạm, đường, muối và không đủ chất xơ; (ii) thiếu hoạt động thể chất, lười vận động; iii) các nguyên nhân di truyền, nội tiết. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra mối tương quan giữa TCBP với thời gian tĩnh tại, tuổi tác, trình độ học vấn, môi trường sinh sống làm việc, thời gian ngủ v.v..
Theo các chuyên gia y tế, có nhiều nguyên nhân dẫn đến thừa cân béo phì mà đồ uống có đường không phải là nguyên nhân chính. Các thực phẩm có chứa đường và đồ ngọt nói chung cũng chỉ cung cấp khoảng 3,6% tổng năng lượng đưa vào cơ thể từ thức ăn và đồ uống, trong khi đó nguồn năng lượng chiếm nhiều nhất là ngũ cốc (51,4%), thịt (15,5%), các thực phẩm khác là (22%).
Ngoài ra, mức tiêu thụ nước giải khát ở Việt Nam không phải là cao so với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Theo số liệu trong báo cáo của Bộ Tài chính, mức tiêu thụ đồ uống có đường ở Việt Nam năm 2018 là 50,7 lít/người/năm. Theo số liệu trong báo cáo của Bộ Y tế, năm 2020 Việt Nam tiêu thụ 3,3 tỷ lít nước giải khát, tức là tương đương với khoảng 34 lít/người/năm nếu tính trên số dân là 96 triệu người vào năm 2020. Như vậy, theo số liệu của hai cơ quan trên thì mức độ tiêu thụ đồ uống có đường tại Việt Nam từ năm 2018 đến năm 2020 có chiều hướng giảm.
Theo báo cáo của Hiệp hội ngành giải khát châu Âu (UNESDA) năm 2019, mức tiêu thụ nước giải khát bình quân đầu người ở châu Âu là 243,9 lít/ người, tức là gấp gần 4,8 lần so với Việt Nam. Tại châu Á, nhiều nước cũng có mức tiêu thụ bình quân nước giải khát trên 100 lít/người/năm.
Mặt khác, xét dưới góc độ tác động kinh tế, việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt ở mức 5% hay 10% đối với nước giải khát có đường tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế – từ tiêu dùng, sản xuất đến việc làm, đầu tư và tăng trưởng.
GS.TS Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội lo ngại bối cảnh hiện nay, chúng ta tìm mọi cách để kích cầu tiêu dùng nội địa, đang giảm thuế để hỗ trợ các doanh nghiệp, nếu tăng thuế, mở rộng đối tượng chịu thuế TTĐB như đối với NGK có đường sẽ khiến các doanh nghiệp càng phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức có thể ảnh hưởng tới các giải pháp kích cầu tiêu dùng nội địa.
Trong bối cảnh đất nước bước vào Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam với mục tiêu tăng trưởng kinh tế đầy khát vọng – đạt tối thiểu 8% trong năm 2025 và tiến tới tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026–2030 – cộng đồng doanh nghiệp tiếp tục giữ vai trò động lực then chốt trong thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Để hiện thực hóa mục tiêu này, việc ban hành các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững là hết sức cấp thiết, qua đó tạo nền tảng cho nguồn thu ngân sách ổn định và lâu dài.
Trên tinh thần đó, cộng đồng doanh nghiệp ngành nước giải khát kiến nghị các cơ quan hoạch định chính sách cần đánh giá toàn diện, thận trọng và có lộ trình phù hợp khi xem xét áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát có đường. Việc điều chỉnh chính sách thuế, nếu có, chỉ nên được triển khai khi đã có đầy đủ bằng chứng khoa học, cơ sở thực tiễn và các nghiên cứu tác động một cách toàn diện, nhằm bảo đảm sự công bằng và hiệu quả.