Đào tạo nhà báo thế hệ mới: Tử tế, linh hoạt, đa nhiệm

Sinh viên báo chí ngày càng đa dạng lựa chọn nghề nghiệp. Đào tạo không thể 'đóng khung' mà cần đổi mới, dẫn lối, và gìn giữ giá trị báo chí chân chính.

Những năm gần đây, ngày càng nhiều sinh viên báo chí lựa chọn những hướng đi mới sau khi tốt nghiệp như làm truyền thông doanh nghiệp, sáng tạo nội dung trên mạng xã hội, trở thành content creator, youtuber, tiktoker... Sự chuyển hướng này cũng đặt ra một câu hỏi về việc đào tạo nhân lực báo chí cần điều chỉnh ra sao để phù hợp với thực tế nghề nghiệp đang thay đổi?

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam về vấn đề này, Tiến sĩ Triệu Thanh Lê - Trưởng khoa Báo chí & Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng việc sinh viên tốt nghiệp báo chí không nhất thiết phải làm báo là một hiện tượng bình thường và không nên nhìn nhận nó như một điều tiêu cực.

“Chúng ta cần hiểu đúng khái niệm “làm đúng chuyên ngành”. Không thể hiểu một cách máy móc rằng cử nhân báo chí thì nhất định phải công tác tại các cơ quan báo chí. Trong thực tế, nhân sự trong các tòa soạn là có hạn và không phải năm nào các cơ quan báo chí cũng có nhu cầu tuyển dụng hàng trăm sinh viên tốt nghiệp cùng lúc”, cô Lê nhấn mạnh.

 Sinh viên khoa Báo chí & Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Ảnh: NVCC

Sinh viên khoa Báo chí & Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Ảnh: NVCC

Theo Tiến sĩ Triệu Thanh Lê, điều quan trọng là sinh viên có thể vận dụng kiến thức và kỹ năng được đào tạo trong lĩnh vực báo chí để thích ứng với các môi trường làm việc khác nhau trong hệ sinh thái truyền thông hiện đại.

“Việc sinh viên lựa chọn làm truyền thông doanh nghiệp, sáng tạo nội dung trên nền tảng số như youtube, tiktok, hay trở thành content creator... không có nghĩa là họ làm trái ngành. Ngược lại, đó là minh chứng cho sự chủ động thích ứng và phát huy năng lực nghề nghiệp đã được đào tạo.

Ngay cả khi làm việc trong các công ty kinh doanh, các em vẫn đảm nhận các vị trí liên quan đến báo chí - truyền thông. Điều đó cho thấy sự chủ động lựa chọn nghề nghiệp của người học khi sử dụng chính kiến thức và kỹ năng học được từ chương trình đào tạo báo chí để thích ứng và phát huy năng lực chuyên môn trong nhiều vị trí nghề nghiệp hết sức đa dạng của ngành công nghiệp truyền thông hiện nay”, Tiến sĩ Lê khẳng định.

Dẫn chứng từ thực tiễn đào tạo, cô Lê cho biết: “Trong hơn 30 năm hoạt động, Khoa Báo chí và Truyền thông đã cung cấp cho thị trường hơn 5.000 cử nhân chất lượng, được các đơn vị tuyển dụng đánh giá cao”. Theo kết quả khảo sát sinh viên tốt nghiệp do Phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) thực hiện năm 2023, tỷ lệ sinh viên tìm được việc làm sau khi tốt nghiệp đạt gần 90%. Theo cô Lê, phần lớn sinh viên làm việc đúng chuyên môn đào tạo, dù không phải tất cả đều làm tại các tòa soạn báo chí.

 Thiếu tá, Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn - Giảng viên Khoa Văn thư lưu trữ và Báo chí, Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội. Ảnh: NVCC

Thiếu tá, Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn - Giảng viên Khoa Văn thư lưu trữ và Báo chí, Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội. Ảnh: NVCC

Cùng quan điểm, Thiếu tá, Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn - Giảng viên Khoa Văn thư lưu trữ và Báo chí, Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội cho rằng, xu hướng sinh viên báo chí lựa chọn nhiều hướng đi nghề nghiệp khác nhau sau khi ra trường là điều phù hợp với bối cảnh phát triển của ngành hiện nay, và cần được nhìn nhận như một cơ hội hơn là thách thức.

“Đây là một xu hướng diễn ra phổ biến và tương đối phù hợp với tình hình phát triển của ngành báo chí - truyền thông ở nước ta. Báo chí là lĩnh vực đặc thù trong hoạt động truyền thông đại chúng, nên sinh viên tốt nghiệp ngành này có nhiều lợi thế cạnh tranh khi tham gia vào lĩnh vực truyền thông nói chung”, thầy Tuấn phân tích.

Theo thầy Tuấn, lợi thế đó đến từ việc sinh viên được trang bị nền tảng kiến thức báo chí - truyền thông, kỹ năng tác nghiệp chuyên biệt và kinh nghiệm sản xuất thông tin - những năng lực rất phù hợp với yêu cầu của thị trường truyền thông hiện đại. Đặc biệt, trong bối cảnh các lĩnh vực như kinh tế số, công nghiệp giải trí, truyền thông kỹ thuật số đang phát triển mạnh, người học báo chí có nhiều cơ hội tham gia sáng tạo nội dung trên các nền tảng số.

Từ đó, Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn cho rằng các cơ sở đào tạo báo chí - truyền thông cần chủ động thích ứng và có cách tiếp cận linh hoạt trong việc thiết kế chương trình đào tạo. “Chúng ta không nên đóng khung nghề báo là phải gắn chặt với các cơ quan báo chí. Mục tiêu đào tạo cần được mở rộng để phù hợp với các lĩnh vực lao động năng động, sáng tạo, đặc biệt là trong kỷ nguyên số”, vị giảng viên nhấn mạnh.

 Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn cùng các học viên khóa đầu tiên của lớp đại học Báo chí Quân sự Lào, do Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội tổ chức đào tạo. Ảnh: NVCC

Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn cùng các học viên khóa đầu tiên của lớp đại học Báo chí Quân sự Lào, do Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội tổ chức đào tạo. Ảnh: NVCC

Trong bối cảnh số lượng cơ quan báo chí đang tinh gọn, sáp nhập nên áp lực đầu ra cho sinh viên là có thật. Nhưng thay vì lo ngại, các cơ sở đào tạo đang chọn cách thích ứng.

Tiến sĩ Triệu Thanh Lê cho rằng: “Không phải đến khi các cơ quan báo chí sáp nhập hay tinh gọn thì công tác đào tạo mới đối diện thách thức. Bản chất của đời sống báo chí - truyền thông vốn đã là một môi trường nghề nghiệp luôn biến động nhanh và chịu tác động trực tiếp từ những thay đổi của xã hội, công nghệ và nhu cầu công chúng”.

Theo cô Lê, mỗi thành tựu công nghệ mới xuất hiện, từ điện thoại thông minh, internet, mạng xã hội cho đến trí tuệ nhân tạo, đều đặt lại những câu hỏi căn bản về nghề báo: báo chí sẽ thay đổi thế nào, người làm báo cần thích ứng ra sao?

“Những lo ngại về đầu ra việc làm là nỗi băn khoăn thường trực, là một “lẽ thường” đối với người làm đào tạo. Nhưng vấn đề không phải là có nên tiếp tục đào tạo hay không, mà là phải trả lời câu hỏi: chúng ta sẽ đào tạo gì trong bối cảnh mới”, Tiến sĩ Lê nhấn mạnh. Theo cô, điều này đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải liên tục cập nhật, điều chỉnh chương trình, đảm bảo sinh viên có được những năng lực hiện đại để thích ứng với thị trường nghề nghiệp nhiều biến động.

Từ góc độ chuyên môn, Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn nhấn mạnh rằng: “Muốn tăng khả năng cạnh tranh nghề nghiệp, sinh viên phải được đào tạo theo hướng “đa năng - đa nhiệm”, có thể tác nghiệp trên nhiều nền tảng, ở nhiều môi trường”.

Theo thầy Tuấn, xu thế tất yếu là chuyển từ đào tạo đại trà sang đào tạo chất lượng cao, chuyên biệt, có tuyển chọn, tập trung vào các hạt nhân có năng lực nổi bật. “Điều này không chỉ giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mà còn giúp người học tiếp cận được những yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động báo chí - truyền thông”, Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn khẳng định.

 Tiến sĩ Phan Quốc Hải - Trưởng khoa Báo chí - Truyền thông, Trường Đại học Khoa học (Đại học Huế). Ảnh: NVCC

Tiến sĩ Phan Quốc Hải - Trưởng khoa Báo chí - Truyền thông, Trường Đại học Khoa học (Đại học Huế). Ảnh: NVCC

Xét về yêu cầu cải cách toàn diện, Tiến sĩ Phan Quốc Hải Trưởng khoa Báo chí - Truyền thông, Trường Đại học Khoa học (Đại học Huế) cho rằng các cơ sở đào tạo cần chọn thay đổi để thích ứng, trong đó có 3 ưu tiên cần được triển khai mạnh mẽ.

Thứ nhất là đổi mới chương trình đào tạo theo hướng liên ngành, linh hoạt, kết hợp báo chí, truyền thông, công nghệ, kinh tế… để sinh viên có nền tảng kiến thức đa lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu chuyển dịch nghề nghiệp sau này.

Thứ hai là đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng thực chiến, học qua dự án, rút ngắn khoảng cách giữa giảng đường và thực tiễn tòa soạn. “Cần xây dựng hệ sinh thái đào tạo giữa nhà trường - doanh nghiệp - cơ quan báo chí, nơi sinh viên được học gắn với thực tiễn, có người hướng dẫn tận tình và được trải nghiệm môi trường nghề nghiệp ngay từ sớm”, thầy Hải đề xuất.

Thứ ba là đào tạo tư duy khởi nghiệp và năng lực tạo việc làm. “Không thể đào tạo sinh viên với tư duy “xin việc” nữa. Các bạn cần được trang bị năng lực làm freelancer (làm việc tự do - PV), xây dựng thương hiệu cá nhân, phát triển kênh nội dung độc lập - đó là con đường rất thực tế trong bối cảnh nghề báo đang chuyển đổi mạnh mẽ”, thầy Hải khẳng định.

Một trong những yếu tố đang tác động mạnh mẽ đến hoạt động báo chí - truyền thông hiện nay chính là sự phát triển vượt bậc của trí tuệ nhân tạo (AI). Không chỉ thay đổi cách thông tin được tạo ra, xử lý và phân phối, AI còn đặt ra những yêu cầu mới đối với năng lực nghề nghiệp của người làm báo, cũng như chiến lược đào tạo của các cơ sở giáo dục báo chí.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn cho rằng trong tương lai gần, AI sẽ không chỉ dừng lại ở vai trò một công cụ hỗ trợ mà hoàn toàn có thể trở thành “trợ giảng”, thậm chí là “giảng viên” trong các lớp học báo chí. Tuy nhiên, thầy Tuấn nhấn mạnh, dù có sự tham gia của AI, người học vẫn phải là trung tâm của quá trình đào tạo. Các cơ sở giáo dục cần tận dụng AI như một nguồn lực để cá nhân hóa lộ trình học, hỗ trợ người học tiếp cận tri thức hiệu quả và phát triển tư duy sáng tạo.

Thầy Tuấn cũng cho rằng việc đưa AI vào giảng dạy không nên chỉ dừng lại ở thao tác kỹ thuật, mà cần hướng đến đào tạo người học trở thành những “nhà báo - chuyên gia”, có khả năng vận hành đa phương tiện, đa nền tảng và đa ngôn ngữ, tham gia phản biện, đóng góp ý kiến nhằm giải quyết các vấn đề trong xã hội.

 Sinh viên trong giờ thực hành chuyên ngành báo chí, trải nghiệm quy trình tác nghiệp tại lớp học. Ảnh: sinh viên khoa Báo chí & Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh)

Sinh viên trong giờ thực hành chuyên ngành báo chí, trải nghiệm quy trình tác nghiệp tại lớp học. Ảnh: sinh viên khoa Báo chí & Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh)

Về phía Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh), Tiến sĩ Triệu Thanh Lê cho biết, Khoa đã tiến hành khảo sát sinh viên về mức độ nhận thức, nhu cầu và năng lực sử dụng AI trong học tập và nghề nghiệp. “Kết quả khảo sát cho thấy sinh viên khá quen thuộc với việc sử dụng AI và có năng lực tổng hợp, đánh giá thông tin do AI cung cấp ở mức khá tốt”, cô chia sẻ.

Từ đó, Khoa dự kiến cập nhật chương trình đào tạo theo hướng tích hợp AI chuyên sâu vào từng học phần chuyên ngành, đồng thời tăng cường các hoạt động hướng dẫn kỹ năng kiểm chứng thông tin, đạo đức sử dụng AI và tôn trọng bản quyền. Các môn học mới sẽ được bổ sung theo định hướng dữ liệu, như tư duy máy tính, khai thác dữ liệu công chúng và phân tích hành vi truyền thông, nhằm trang bị cho sinh viên năng lực cốt lõi trong thời đại truyền thông số.

Ở góc nhìn chiến lược, Tiến sĩ Phan Quốc Hải cho rằng: “AI cần được đưa vào chương trình như một kỹ năng bắt buộc, tương tự như khả năng tác nghiệp hay đạo đức nghề báo”. Theo thầy, điều quan trọng nhất là giúp sinh viên phân biệt ranh giới giữa ứng dụng và lệ thuộc vào AI, giữa sáng tạo thật và nội dung sao chép.

“Chúng ta không dạy sinh viên tránh né công nghệ, mà dạy cách làm chủ nó, sử dụng AI như một công cụ hỗ trợ chứ không phải đe dọa”, thầy Hải nói.

Tiến sĩ Hải cũng nhấn mạnh vai trò của đạo đức và tư duy phản biện trong kỷ nguyên AI: “Khi nội dung có thể được tạo ra hàng loạt bởi máy móc, điều còn lại để xác lập giá trị của một nhà báo là phẩm chất nghề nghiệp, khả năng phản biện và dấn thân - những thứ mà không mô hình AI nào có thể thay thế”.

 Tiết học thực hành chuyên ngành báo chí của sinh viên khoa Báo chí - Truyền thông, Trường Đại học Khoa học (Đại học Huế). Ảnh: NVCC

Tiết học thực hành chuyên ngành báo chí của sinh viên khoa Báo chí - Truyền thông, Trường Đại học Khoa học (Đại học Huế). Ảnh: NVCC

Báo chí hôm nay đổi thay từng ngày, khiến ngay cả những người trong nghề cũng khó đoán định tương lai phía trước. Thế nhưng, giữa biến động ấy, những người làm công tác đào tạo vẫn kiên định với niềm tin vào những giá trị cốt lõi, đồng thời gửi gắm nhiều kỳ vọng đến thế hệ sinh viên, những người sẽ tiếp nối sứ mệnh nghề nghiệp trong thế kỷ mới.

Tiến sĩ Triệu Thanh Lê thẳng thắn nhìn nhận: “Không ai có thể nói chắc rằng những năm tới nghề báo sẽ ra sao, báo chí hoạt động như thế nào”. Tuy vậy, theo cô, “những giá trị phổ quát của báo chí thế giới thì không bao giờ thay đổi” - đó là khát vọng về sự thật, và vai trò không thể thay thế của người làm báo trong việc phân biệt đúng - sai, thật - giả giữa một xã hội đầy thông tin hỗn tạp.

“Không chỉ riêng tôi mà các thầy cô đều có một lời nhắn nhủ: các em hãy học hỏi không ngừng để đáp ứng những đòi hỏi mới của môi trường nghề nghiệp, và luôn gìn giữ những giá trị tốt đẹp của một nhà báo chân chính”, cô Lê chia sẻ.

Đồng quan điểm, Tiến sĩ Phan Quốc Hải đưa ra lời khuyên giản dị mà đầy sâu sắc: “Muốn làm báo giỏi, trước hết phải là người tử tế”.

“Hãy học báo, làm báo bằng cả trái tim và ý thức trách nhiệm công dân. Báo chí không phải là nghề để nổi tiếng hay giàu có, mà là nghề gắn bó sâu sắc với vận mệnh quốc gia, dân tộc, thời đại. Làm báo là để đưa tin, nhưng cũng là để biết chia sẻ, đau với nỗi đau của nhân dân mình, của đồng loại mình, vui cùng niềm vui và khát vọng của Tổ quốc mình”, thầy Hải gửi gắm.

Trong bối cảnh số, người làm báo hiện đại cần có chuyên môn vững, tư duy phản biện, khả năng học suốt đời, và bản lĩnh đấu tranh cho công lý. “Con đường phía trước không dễ đi. Báo chí đang đối mặt với khủng hoảng tài chính, nguồn thu nhập hạn chế, sự cạnh tranh khốc liệt của các phương tiện truyền thông mới và áp lực xã hội rất lớn. Nhưng chính trong gian nan, nghề báo mới cần những người làm báo chân chính biết giữ lửa nghề, giữ phẩm chất, và giữ niềm tin vào vai trò xã hội của báo chí”, thầy Hải nhấn mạnh.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn thì nhìn nhận dấu mốc 100 năm báo chí cách mạng Việt Nam là thời điểm đặc biệt để tri ân lịch sử và định vị lại vai trò của người làm báo trong thời đại số: “Tôi thấy thật vinh dự vì được góp một phần nhỏ vào hành trình 100 năm vẻ vang của nền báo chí cách mạng”.

Dẫn lại lời của tác giả Yuval Noah Harari trong cuốn “21 bài học cho thế kỷ 21”, thầy Tuấn nhấn mạnh: “Khả năng thích ứng với thay đổi, học hỏi điều mới và giữ bình tĩnh trong tình huống xa lạ là điều quan trọng nhất”.

Theo thầy Tuấn, người làm báo hôm nay, đặc biệt là sinh viên phải sẵn sàng đổi mới tư duy, chủ động thích nghi và đón nhận công nghệ, để tiếp tục sứ mệnh đồng hành cùng dân tộc, phụng sự nhân dân trong kỷ nguyên mới.

“Và cần tin tưởng rằng, báo chí cách mạng Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên số. Báo chí cách mạng Việt Nam sẽ tiếp tục đồng hành cùng dân tộc, phụng sự Tổ quốc, Nhân dân, ra sức cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, vị giảng viên nhấn mạnh.

Doãn Nhàn

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/dao-tao-nha-bao-the-he-moi-tu-te-linh-hoat-da-nhiem-post252130.gd