Để tăng trưởng cao không chỉ trông vào vốn ngân hàng
Mục tiêu tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026-2030 đặt ra yêu cầu huy động và phân bổ hiệu quả nguồn lực tài chính ở quy mô chưa từng có. Chuyên gia cho rằng, để tăng trưởng cao không chỉ trông vào vốn ngân hàng và chỉ ra những rủi ro với hệ thống.
Nhu cầu vốn cho nền kinh tế cao
Tại Diễn đàn chuyên đề “Huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2026-2030” ngày 16/12, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Hà cho biết, để đạt được mục tiêu tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026-2030 yêu cầu cấp thiết đặt ra là Việt Nam phải đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, liên tục, ổn định và bền vững trong giai đoạn tới.

Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Hà. Ảnh: VGP/HT.
"Một trong những bài toán có ý nghĩa quyết định đối với mục tiêu tăng trưởng cao là bảo đảm nguồn vốn đủ lớn cho nền kinh tế, đồng thời sử dụng hiệu quả để thúc đẩy mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học và đổi mới sáng tạo", ông Hà nói.
Theo bà Hà Thu Giang - Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước, đến ngày 27/11, dư nợ tín dụng đạt trên 18,2 triệu tỷ đồng, tăng 16,56% so với cuối năm 2024 và tăng gần gấp đôi so với đầu giai đoạn trước.
Cơ cấu tín dụng chuyển dịch phù hợp với cơ cấu các ngành kinh tế. Tín dụng hướng vào lĩnh vực ưu tiên, trong đó một số lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn như nông nghiệp, nông thôn chiếm khoảng 23% và doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 19% tổng dư nợ. Đặc biệt, tín dụng đối với lĩnh vực doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao và công nghiệp hỗ trợ có tốc độ tăng trưởng cao, bình quân lần lượt 17,5% và 19,9% trong giai đoạn vừa qua.
Cùng với các nguồn vốn khác, tín dụng ngân hàng đã cung cấp nguồn tài chính thiết yếu để triển khai nhiều dự án, công trình trọng điểm. Tuy nhiên, bà Giang cho rằng, áp lực cung ứng vốn đối với hệ thống ngân hàng vẫn rất lớn trong bối cảnh thị trường tài chính phát triển chưa cân xứng. Nhu cầu vốn của nền kinh tế tăng cao, trong khi huy động vốn từ thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường chứng khoán còn gặp nhiều khó khăn, chưa phát huy đầy đủ vai trò là kênh cung ứng vốn trung - dài hạn chủ yếu.
“Nhu cầu vốn trung, dài hạn cho các dự án, công trình trọng điểm quốc gia là rất lớn, tạo áp lực cho các tổ chức tín dụng trong việc cung ứng vốn để thực hiện dự án, cũng như rủi ro kỳ hạn do nguồn vốn chính để cho vay chủ yếu là tiền gửi có kỳ hạn ngắn, chiếm 80% tổng tiền gửi của các tổ chức tín dụng”, bà Giang nói.
Nhận diện rủi ro hệ thống tài chính
TS. Nguyễn Quốc Hùng - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng - cho rằng, hệ thống ngân hàng thời gian qua đã nỗ lực rất lớn trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu tiếp tục dựa chủ yếu vào tín dụng ngân hàng, rủi ro đối với hệ thống sẽ ngày càng gia tăng, nhất là trong bối cảnh các ngân hàng phải tiến tới tuân thủ các chuẩn mực quốc tế như Basel III.

TS. Nguyễn Quốc Hùng - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng. Ảnh: VGP/HT.
Theo ông Hùng, áp lực nợ xấu, thanh khoản và chi phí vốn có thể quay trở lại nếu tín dụng tiếp tục tăng nhanh trong khi thị trường vốn phát triển chưa tương xứng. Do đó, việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tập trung nhiều hơn vào sản xuất - kinh doanh thay vì các lĩnh vực mang tính đầu cơ là yêu cầu cấp thiết để bảo đảm tăng trưởng bền vững.
Chia sẻ từ góc độ quốc tế, đại diện Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) lưu ý, tăng trưởng tín dụng nhanh trong quá khứ thường đi kèm với nợ xấu và áp lực lên bảng cân đối kế toán của các ngân hàng.
Để duy trì tăng trưởng cao một cách bền vững, đại diện IMF cho rằng, Việt Nam cần tập trung nâng cao tiềm năng tăng trưởng thông qua cải cách cơ cấu, cải thiện năng suất và tăng cường hiệu quả thực thi chính sách. Đồng thời, việc củng cố giám sát ngân hàng, nâng cao tính minh bạch và từng bước dựa nhiều hơn vào các công cụ thị trường là yêu cầu không thể thiếu.














