Để xe buýt thực sự là phương tiện đáng lựa chọn

Tại Hà Nội, phát triển giao thông công cộng được coi như giải pháp quan trọng hạn chế tình trạng ùn tắc. Ngoài phương tiện hiện đại như đường sắt trên cao thì xe buýt là phương tiện chủ lực trong thời điểm này. Tuy nhiên, việc phát triển xe buýt vẫn đang gặp phải khó khăn nhất định, cụ thể ở đây là việc thiếu làn đường riêng, nâng cao chất lượng phương tiện, chuyển đổi phương tiện sử dụng điện…

Đối mặt nhiều thách thức

Thời gian qua, với nhiều nỗ lực, Hà Nội đã có mạng lưới xe buýt phát triển tương đối đồng bộ. Cụ thể, Hà Nội hiện có 154 tuyến buýt, trong đó có 132 tuyến trợ giá với 2.024 phương tiện, 8 tuyến buýt không trợ giá, 12 tuyến buýt kế cận và 2 tuyến buýt City tour.

Trong số này có 269 xe năng lượng sạch và trên 1.200 xe đạt tiêu chuẩn khí thải Euro IV trở lên. Hệ thống thông báo âm thanh, hệ thống thông tin bằng bảng LED, wifi miễn phí, lắp đặt camera trên xe đều đạt 100%.

Phát triển giao thông công cộng được coi như giải pháp quan trọng hạn chế tình trạng ùn tắc tại Thủ đô Hà Nội. Ảnh: Đinh Luyện

Phát triển giao thông công cộng được coi như giải pháp quan trọng hạn chế tình trạng ùn tắc tại Thủ đô Hà Nội. Ảnh: Đinh Luyện

Cùng đó, mạng lưới xe buýt hiện tiếp cận đến toàn bộ 30 quận, huyện, thị xã; 512/579 xã, phường thị trấn (đạt 88,4%); 192/286 các trường đại học, cao đẳng, trung học phổ thông (đạt 67%); 65/75 bệnh viện (đạt 87%)... Đáng chú ý, xe buýt ở Hà Nội hiện đã kết nối với 7 tỉnh thành lân cận gồm: Hưng Yên, Hà Nam, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Hòa Bình, Vĩnh Phúc.

Dù đã có nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên, xe buýt Thủ đô vẫn đang đối mặt với không ít thách thức. Qua rà soát cho thấy, mật độ mạng lưới xe buýt rất cao nhưng chỉ tập trung ở các trục chính. Nhiều khu vực khó tiếp cận, cự ly đi bộ từ 0,5 - 1km, thậm chí có khu vực trên 1,5km mới có xe buýt. Nguyên nhân do tuyến đường không đủ điều kiện hạ tầng để chạy buýt, mặt cắt ngang dưới 5m. Đơn cử như đường Chiến Thắng, Tân Triều, Triều Khúc, khu vực Phùng Khoang, Khương Trung, Khương Hạ, ngõ Văn Chương, Tôn Thất Tùng… có mật độ dân cư cao nhưng xe buýt khó tiếp cận.

Hà Nội hiện có 4.405 điểm dừng xe buýt nhưng trong đó chỉ có 350 điểm dừng có nhà chờ tương đương với 8%. Nhà chờ xe buýt chủ yếu trong nội thành đã xuống cấp do được đưa vào khai thác sử dụng từ những năm 2016 trở về trước.

Ngoài ra, một số tuyến đường có nhiều tuyến buýt cùng đi qua như trục đường Nguyễn Trãi - Hà Đông có 9 tuyến trùng lặp, gồm các tuyến buýt: 01, 02, 19, 21A, 21B, 27, 161, E01, E04, E09. Trục giải Phóng - Ngọc Hồi có 14 tuyến trùng lặp gồm: 03B, 06A, 06B, 06C, 06D, 06E, 08A, 08B, 12, 16, 21B, 22C, 28, 32, 41, 99,101A, 101B, 106, 158. Trục Long Biên - Nguyễn Văn Cừ có 13 tuyến buýt trùng lặp, gồm các tuyến: 01, 03A,17, 22A, 34, 42, 43, 48, 51, 54, 65, 100, E02. Trục Cầu Giấy - Nhổn có hệ số trùng lặp là 11, gồm các tuyến buýt: 09B, 16, 20A, 26, 27, 32, 34, 39, 49, 51, E05. Các điểm trung chuyển Nhổn, Cầu Giấy có hệ số trùng lặp là 11 tuyến.

Tìm giải pháp phát triển

Thực tế, tại Hà Nội, xe buýt chiếm vai trò ngày càng quan trọng, đòi hỏi phải sớm có giải pháp tháo gỡ những khó khăn, phát triển nhanh chóng, toàn diện để đảm bảo năng lực phục vụ người dân cũng như thân thiện với môi trường.

Tại Hội thảo giải pháp phát triển hệ thống vận tải hành khách công cộng trên địa bàn thành phố đến năm 2035 do Sở Giao thông vận tải Hà Nội tổ chức, Phó Giám đốc Sở Giao thông vận tải Hà Nội Đào Duy Phong cho biết, thời gian qua Sở đã điều chỉnh lộ trình 10 tuyến, dừng hoạt động 6 tuyến, điều chỉnh lộ trình kết hợp điều chỉnh tần suất dịch vụ với 12 tuyến, điều chỉnh tần suất dịch vụ 43 tuyến.

Mạng lưới xe buýt của Thủ đô hiện tiếp cận đến toàn bộ 30 quận, huyện, thị xã; 512/579 xã, phường thị trấn (đạt 88,4%); 192/286 các trường đại học, cao đẳng, trung học phổ thông (đạt 67%); 65/75 bệnh viện (đạt 87%)... Đáng chú ý, xe buýt ở Hà Nội hiện đã kết nối với 7 tỉnh thành lân cận gồm: Hưng Yên, Hà Nam, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Hòa Bình, Vĩnh Phúc. Song qua rà soát cho thấy, mật độ mạng lưới xe buýt rất cao nhưng chỉ tập trung ở các trục chính. Nhiều khu vực khó tiếp cận, cự ly đi bộ từ 0,5 - 1km, thậm chí có khu vực đi bộ trên 1,5km, người dân mới có xe buýt. Nguyên nhân do tuyến đường không đủ điều kiện hạ tầng để chạy buýt, mặt cắt ngang dưới 5m.

Các tuyến sau điều chỉnh tỷ lệ trợ giá/chi phí ước đạt 77% (trước điều chỉnh là 85%), giúp giảm phí trợ giá khoảng 193 tỷ đồng/năm. Theo Sở Giao thông vận tải Hà Nội, sự điều chỉnh thay đổi trên các tuyến có tạo ra sự bất tiện trong sử dụng dịch vụ buýt như tăng thời gian chờ đợi nhưng không quá lớn, vẫn ở trong ngưỡng chấp nhận của người dân. Chất lượng dịch vụ ở các tuyến sau điều chỉnh ở mức trung bình và tốt. Ở giai đoạn 2, dự kiến Hà Nội tiếp tục rà soát xe buýt theo 5 tiêu chí gồm: Hệ số trùng lặp tuyến, hệ số đường không thẳng, tỷ lệ trợ giá so với chi phí, tỷ lệ trợ giá cho một hành khách, hệ số sử dụng sức chứa. Sau rà soát, Hà Nội sẽ điều chỉnh tăng dịch vụ khi các tuyến cải thiện về sản lượng và chất lượng dịch vụ, đảm bảo tiêu chí hiệu quả tuyến.

Cùng với đó, Sở Giao thông vận tải Hà Nội thông tin thêm, cơ quan này đang nghiên cứu tổ chức làn ưu tiên cho xe buýt. Các tuyến đường được lựa chọn đảm bảo ít nhất có từ 4 làn xe/hướng, mặt cắt ngang lớn hơn 15m/hướng. Dự kiến năm 2025 sẽ thí điểm 3 đoạn tuyến đường, tổng có khoảng 6,5km làn ưu tiên. Giai đoạn 2026 đến 2030, đề xuất 12 làn ưu tiên dành cho xe buýt, tổng chiều dài 56,5km. Giai đoạn 2031-2035 sẽ đề xuất 6 làn ưu tiên, tổng chiều dài 135,9km. Cùng đó, xây dựng các điểm trung chuyển xe buýt lớn giúp tiếp cận gần các ga đầu mối, ga vành đai của các tuyến đường sắt đô thị. Phát triển các điểm trung chuyển, bố trí lại điểm dừng xe buýt dọc hành lang các tuyến đường sắt đô thị.

Đáng chú ý, về việc nâng cao chất lượng phương tiện, chuyển đổi phương tiện sử dụng điện, năng lượng xanh, Hà Nội đưa ra 3 kịch bản cho giai đoạn đến năm 2035. Kịch bản 1 (100% xe buýt điện), kịch bản 2 (70% xe buýt điện, 30% xe buýt LNG/CNG), kịch bản 3 (50% xe buýt điện, 50% xe buýt LNG/CNG) (xe buýt LNG/CNG là loại xe buýt sử dụng khí thiên nhiên nén làm nhiên liệu thay thế cho dầu diesel thông thường, giúp bảo vệ môi trường).

Hiến kế để phát triển xe buýt, PGS.TS Nguyễn Minh Hiếu (Trường Đại học Giao thông Vận tải) đưa ra 6 nhóm giải pháp chính để phát triển mạng lưới xe buýt cho Hà Nội. Một trong số đó là rà soát, điều chỉnh mạng lưới tuyến buýt hiện tại nhằm giảm chồng chéo, trùng lặp, giảm chi phí, trợ giá, tăng cường khả năng tiếp cận và năng lực phục vụ người dân. Đặc biệt, mạng lưới tuyến buýt phải được điều chỉnh phù hợp với hệ thống đường sắt đô thị của Thành phố.

Ngoài ra, PGS.TS Nguyễn Minh Hiếu cũng đề xuất Hà Nội cần chú trọng đến các giải pháp về hạ tầng phục vụ xe buýt, trong đó đặc biệt cần tổ chức làn đường ưu tiên cho xe buýt tại các tuyến đường có từ 4 làn xe/hướng, mặt cắt ngang từ trên 15m trở lên. Xây dựng các điểm trung chuyển xe buýt lớn tiếp cận nhà ga đầu mối, ga vành đai của đường sắt đô thị, bến xe liên tỉnh…

Đặc biệt, cần phải nâng cao chất lượng dịch vụ xe buýt. Trong đó, Hà Nội cần có nhận diện thương hiệu riêng để thu hút sự chú ý và gần gũi với người dân hơn; ứng dụng công nghệ vào quản lý, vận hành mạng lưới xe buýt. Đặc biệt cần xây dựng bộ quy chuẩn nghiệp vụ đối với lái xe và nhân viên bán vé, đưa thành nội dung đào tạo bắt buộc với tất cả lao động trong hệ thống xe buýt.

Đinh Luyện

Nguồn LĐTĐ: https://laodongthudo.vn/de-xe-buyt-thuc-su-la-phuong-tien-dang-lua-chon-173204.html