Đề xuất giảm thuế nhập khẩu 3 mặt hàng ô tô
Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý với dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi của một số mặt hàng tại Biểu nhập khẩu ưu đãi theo Danh mục mặt hàng chịu thuế ban hành kèm theo Nghị định số 26/2023/NĐ-CP về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan.

Bộ Tài chính đề xuất giảm thuế nhập khẩu mặt hàng ô tô mã HS 8703.23.63, 8703.23.57, 8703.24.51 xuống còn 32% - Ảnh minh họa
Bộ Tài chính cho biết, Bộ đã rà soát tổng thể các mức thuế (thuế nhập khẩu ưu đãi MFN (là mức thuế suất áp dụng cho các hước trong WTO), thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt (là mức thuế suất áp dụng cho các quốc gia có Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Việt Nam), thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), thuế bảo vệ môi trường (BVMT), thuế giá trị gia tăng (GTGT)) đối với các mặt hàng mà các nước quan tâm cũng như mức thuế mà các nước này đang áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu để xây dựng, định hướng chính sách thuế của Việt Nam nhằm cải thiện cán cân thương mại. Đồng thời, Bộ Tài chính cũng so sánh tổng thể các mức thuế với các quốc gia là Đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam thì Việt Nam đang áp dụng tổng thể các mức thuế cơ bản cao hơn.
Bộ Tài chính đã có Báo cáo Thủ tướng Chính phủ cụ thể về nội dung này và các Thành viên Chính phủ cũng đã có ý kiến về nội dung của Báo cáo. Tại Chỉ thị số 06/CT-TTg và Phiên họp Thường trực Chính phủ ngày 23/3/2025, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính khẩn trương trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa Nghị định số 26/2023/NĐ-CP trong tháng 3/2025.
Việc ban hành Nghị định nhằm mục đích góp phần cải thiện cán cân thương mại đối với các Đối tác thương mại toàn diện; khuyến khích doanh nghiệp đa dạng hóa hàng hóa nhập khẩu, tạo sức mua cho người tiêu dùng thuế; đảm bảo đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, tạo thuận lợi cho người nộp.
Giảm thuế nhập khẩu 3 mặt hàng ô tô
Bộ Tài chính trình Chính phủ xem xét sửa đổi, bổ sung thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi của các mặt hàng ô tô thuộc mã HS 8703.23.63, 8703.23.57, 8703.24.51.
Chính sách thuế hiện hành đối với Mã HS 8703.23.63: Ô tô chở người có khoang chở hành lý chung và ô tô thể thao nhưng không kể ô tô thể thao, loại 4 bánh chủ động, dung tích xi lanh trên 2000cc nhưng không quá 2500 cc. Tổng kim ngạch nhập khẩu (KNNK) năm 2024 là 40,8 triệu USD, trong đó KNNK chịu thuế MFN là 11,8 triệu USD (chiếm 29%) và KNNK FTA là 29 triệu USD (chiếm 71%). Thuế suất thuế nhập khẩu MFN là 64%. Cam kết trần WTO là 70%. Thuế TTĐB là 50%, thuế BVMT không thu, thuế GTGT là 10%.
Mã HS 8703.23.57: Ô tô kiểu sedan có dung tích xilanh trên 2000 cc nhưng không quá 2500cc. Tổng KNNK năm 2024 là 13,23 triệu USD, trong đó không có KNNK chịu thuế MFN và KNNK FTA là 13,23 triệu USD (chiếm 100%). Thuế suất thuế nhập khẩu MFN là 64%. Cam kết trần WTO là 70%. Thuế TTĐB là 50%, thuế BVMT không thu, thuế GTGT là 10%.
Mã HS 8703.24.51: Ô tô khác loại 4 bánh chủ động. Tổng KNNK năm 2024 là 71,29 triệu USD, trong đó KNNK chịu thuế MFN là 8,1 triệu USD (chiếm 11,36%) và KNNK FTA là 63,19 triệu USD (chiếm 88,64%). Thuế suất thuế nhập khẩu MFN là 45%. Mức cam kết trần WTO là 47%. Thuế TTĐB là 90%, 110%, 130%, 150% tùy theo dung tích xi lanh; thuế BVMT không thu, thuế GTGT là 10%.
Về tình hình sản xuất trong nước, Bộ Tài chính cho biết, tính đến năm 2024, quy mô thị trường ô tô Việt Nam khoảng 510.000 xe/năm, trong đó sản lượng sản xuất, lắp ráp trong nước là 338.000 xe/năm và sản lượng nhập khẩu là hơn 173.000 xe/năm (nhập khẩu chủ yếu từ các nước ASEAN đang áp dụng mức thuế suất FTA là 0%). Quy mô thị trường ô tô Việt Nam còn nhỏ so với các nước trong khu vực. Theo Bộ Công Thương, dự kiến đến năm 2030, tổng tiêu thụ ô tô vào khoảng 1 đến 1,1 triệu chiếc. Như vậy, trong 05 năm tới phải đạt mục tiêu tiêu thụ gấp đôi so với hiện tại.
Các doanh nghiệp trong nước hiện nay chủ yếu sản xuất, lắp ráp các loại xe có dung tích xi lanh thấp (từ 2.000cc trở xuống) để phục vụ đa số nhu cầu của người dân Việt Nam.
Đề xuất giảm thuế nhập khẩu xuống 32%
KNNK của cả 03 dòng thuế ô tô này đều nhập khẩu chủ yếu từ các quốc gia có mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt là Thái Lan (thuộc Hiệp định ATIGA), Nhật Bản (thuộc Hiệp định CPTPP). Theo đó việc giảm thuế MFN có thể tác động làm tăng dịch chuyển thương mại, người dân tiếp cận được các sản phẩm xe cao cấp có mức giá phù hợp hơn, tuy nhiên thực tế chuyển dịch thương mại đối với ô tô còn phụ thuộc vào thị hiếu, giá cả, dịch vụ sau bán hàng, mức tiêu hao nhiên liệu và ngoài ra, xe còn là tài sản lớn nên người dân Việt Nam có thói quen mua xe theo loại phổ cập. Đồng thời, trong nước cơ bản không sản xuất các dòng xe dung tích xi lanh cao này.
Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất giảm thuế nhập khẩu mặt hàng ô tô mã HS 8703.23.63 và 8703.23.57, từ 64% xuống 32% gần bằng mức thuế suất cam kết CPTPP năm 2025 và mã HS 8703.24.51 từ 45% xuống 32% để thống nhất mức thuế của 3 mã HS trên.
Thực hiện theo phương án này dự kiến giảm số thu ngân sách nhà nước khoảng 8,81 triệu USD tính theo KNNK chịu thuế MFN năm 2024, nhưng mức này có thể thấp hơn nếu số lượng nhập khẩu tăng lên từ các nước MFN thay cho nhập từ ASEAN.
Mời bạn đọc xem toàn văn dự thảo và góp ý tại đây.