Đề xuất về giao kết và thực hiện hợp đồng lao động điện tử

Bộ Nội vụ đã xây dựng dự thảo Nghị định quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng lao động (HĐLĐ) điện tử và đang lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.

Đề xuất về giao kết và thực hiện hợp đồng lao động điện tử.

Đề xuất về giao kết và thực hiện hợp đồng lao động điện tử.

Theo Bộ Nội vụ, qua quá trình theo dõi, đánh giá 5 năm thực hiện Bộ luật Lao động năm 2019 cho thấy, việc giao kết HĐLĐ điện tử đã tạo rất nhiều thuận lợi cho người lao động và người sử dụng lao động, đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động. Đây là quy định tiến bộ, phù hợp với xu hướng phát triển của công nghệ số hiện nay, đáp ứng yêu cầu tất yếu trong tương lai của Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.

Tuy nhiên, quá trình triển khai giao kết, thực hiện HĐLĐ điện tử cũng gặp một số vướng mắc, khó khăn như: chưa có hướng dẫn cụ thể về sửa đổi, bổ sung, chấm dứt HĐLĐ điện tử; thiếu quy định liên quan đến điều kiện có hiệu lực của HĐLĐ bằng phương thức điện tử; việc công nhận giá trị pháp lý và sử dụng HĐLĐ điện tử khi giao dịch với bên thứ ba còn gặp nhiều bất cập và hạn chế.

Do đó, đa số các doanh nghiệp đều đề xuất cơ quan quản lý nhà nước ban hành hướng dẫn cụ thể về giao kết, thực hiện HĐLĐ điện tử để việc áp dụng quy định được triển khai đồng bộ và thuận lợi.

Bộ Nội vụ cho rằng cần thiết ban hành Nghị định của Chính phủ quy định về giao kết, thực hiện HĐLĐ điện tử nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý và triển khai đồng bộ trong thời gian tới.

Dự thảo Nghị định gồm 5 chương, 29 điều

Dự thảo Nghị định gồm 5 chương, 29 điều quy định về giao kết, thực hiện HĐLĐ điện tử, nền tảng hợp đồng lao động điện tử; việc xây dựng, quản lý, duy trì, khai thác và sử dụng Nền tảng hợp đồng lao động điện tử.

Về giao kết, thực hiện HĐLĐ điện tử, dự thảo Nghị định tập trung vào một số nội dung sau:

1. Quy định về nguyên tắc chung, trong đó về tuân thủ quy định của pháp luật về nội dung (pháp luật lao động) và pháp luật về hình thức (pháp luật về giao dịch điện tử), yêu cầu về công nhận giá trị pháp lý của HĐLĐ điện tử và sử dụng tối đa HĐLĐ điện tử trong thực tiễn.

2. Quy định về chủ thể tham gia hoạt động giao kết, thực hiện HĐLĐ điện tử: bao gồm người sử dụng lao động và người lao động có thẩm quyền giao kết HĐLĐ theo quy định tại Điều 18 của Bộ luật Lao động (như đối với giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản giấy) và bổ sung chủ thể thứ 3 là Nhà cung cấp phần mềm giao kết HĐLĐ điện tử (eContract) - đây là chủ thể trung gian tham gia vào quá trình giao kết, thực hiện HĐLĐ với tư cách hỗ trợ phương thức giao kết, cung cấp phần mềm giao kết, thực hiện HĐLĐ điện tử để các bên thực hiện tạo lập, ký số, lưu trữ, truy xuất và quản lý HĐLĐ điện tử.

Hợp đồng lao động phải được gắn Mã định danh (ID) bảo đảm tính duy nhất

3. Quy định về điều kiện, phương thức thực hiện giao kết HĐLĐ: Việc giao kết HĐLĐ điện tử được thực hiện thông qua eContract đáp ứng đủ điều kiện theo quy định. Người sử dụng lao động và người lao động sử dụng chữ ký số do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số hợp pháp cấp để ký HĐLĐ điện tử nhằm bảo đảm xác định được người ký, gắn liền với nội dung dữ liệu, do người ký kiểm soát tại thời điểm ký và có thể phát hiện mọi thay đổi sau khi ký, bảo đảm mức độ an toàn và giá trị pháp lý cao nhất.

Ngoài ra, Nghị định quy định HĐLĐ phải được gắn Mã định danh (ID) do Nền tảng cấp tự động, bảo đảm tính duy nhất, đây là căn cứ để truy xuất, đối chiếu, báo cáo và kiểm tra các thông tin liên quan đến hợp HĐLĐ trên Nền tảng.

4. Quy định về hiệu lực của HĐLĐ điện tử:

Theo quy định tại Điều 400 và Điều 401 Bộ luật Dân sự 2015, thời điểm hiệu lực của hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác; thời điểm giao kết bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.

Căn cứ quy định nêu trên, tại Điều 23 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định HĐLĐ có hiệu lực kể từ ngày hai bên giao kết, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.

So với HĐLĐ văn bản giấy, việc xác định thời điểm hai bên giao kết khó khăn hơn do thực hiện trên môi trường điện tử cần phải có thời gian truyền dữ liệu giữa các chủ thể dẫn đến thời gian ký kết không cùng thời điểm. Theo đó, để bảo đảm tuân thủ quy định xác định thời điểm có hiệu lực của HĐLĐ nói riêng và hợp đồng nói chung và phù hợp với đặc điểm của HĐLĐ điện tử, dự thảo Nghị định quy định thời điểm có hiệu lực của HĐLĐ điện tử là thời điểm bên sau cùng ký vào HĐLĐ điện tử, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác.

5. Về sửa đổi, bổ sung, tạm hoãn, chấm dứt HĐLĐ điện tử: Trong quá trình thực hiện HĐLĐ sẽ xảy ra các tình huống một hoặc cả hai bên giao kết có nhu cầu sửa đổi, bổ sung, tạm hoãn, chấm dứt HĐLĐ điện tử dẫn đến cần phải tiến hành ký kết các văn bản điện tử thỏa thuận về các nội dung này. Để bảo đảm giá trị pháp lý của các văn bản điện tử này, dự thảo Nghị định quy định phương thức, điều kiện thực hiện trong 2 trường hợp: (i) HĐLĐ đã giao kết bằng phương tiện điện tử; (ii) HĐLĐ đã giao kết bằng văn bản giấy nay sửa đổi, bổ sung, tạm hoãn, chấm dứt thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu.

Ngoài ra, dự thảo Nghị định cũng quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương theo phạm vi chức năng được giao; đồng thời quy định quyền và trách nhiệm của Nhà cung cấp dịch vụ, người sử dụng lao động và người lao động để thúc đẩy giao kết, thực hiện HĐLĐ điện tử và bảo đảm Nền tảng được hoạt động hiệu quả, dữ liệu HĐLĐ điện tử trên Nền tảng được bảo đảm "đúng, đủ, sạch, sống".

Mời bạn đọc xem toàn văn và góp ý dự thảo tại đây.

Tuyết Thư

Nguồn Chính Phủ: https://baochinhphu.vn/de-xuat-ve-giao-ket-va-thuc-hien-hop-dong-lao-dong-dien-tu-102251104114927224.htm