Đến 2030, tỷ lệ người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ đạt ít nhất 35%
Đến năm 2030, nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo toàn thời gian đạt 12 người/1 vạn dân, trở thành lực lượng sản xuất đặc biệt quan trọng. Tỷ lệ người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ đạt ít nhất 35%...

Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Ảnh: ST
Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng vừa ký Quyết định số 2711/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Chiến lược).
Mục tiêu của Chiến lược nhằm phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam có chất lượng cao, cơ cấu hợp lý, đóng vai trò là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, dẫn dắt chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, hội nhập quốc tế, là động lực then chốt để Việt Nam đạt mục tiêu trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030; nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, đồng thời góp phần giải quyết các thách thức toàn cầu và khu vực.
Mục tiêu đến năm 2030, phát triển đội ngũ trí thức cả về số lượng và chất lượng, chú trọng đội ngũ trí thức có trình độ cao trong các lĩnh vực then chốt, trọng yếu, bảo đảm cân đối giữa các ngành, lĩnh vực, quan tâm tới vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn đồng thời gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và các chiến lược phát triển của các ngành, lĩnh vực và địa phương.
Về chỉ tiêu phát triển đội ngũ trí thức, đến năm 2030, nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo toàn thời gian đạt 12 người/1 vạn dân, trở thành lực lượng sản xuất đặc biệt quan trọng.
Tỷ lệ người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ đạt ít nhất 35%, trong đó có ít nhất 6.000 nghiên cứu sinh, 20.000 người học các chương trình tài năng. Tăng tỷ lệ lực lượng lao động trí thức trong các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chiến lược lên 25%.
Bảo đảm tối thiểu 40% phụ nữ và người thuộc các nhóm thiểu số tham gia trong các vị trí làm việc, nghiên cứu, giảng dạy, lãnh đạo trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Thu hút 1.000 lượt trí thức Việt Nam ở nước ngoài tiêu biểu trên các lĩnh vực tham gia trao đổi học giả, hợp tác nghiên cứu, đào tạo, chuyển giao công nghệ trong nước thông qua các hình thức làm việc linh hoạt.
Xây dựng các mạng lưới kết nối chuyên gia, trí thức Việt Nam ở nước ngoài chuyên sâu theo lĩnh vực trọng tâm. Có ít nhất 50% trí thức dưới 45 tuổi trong khu vực công được đào tạo và bồi dưỡng theo các chương trình nâng cao trình độ chuyên môn, quản lý, lãnh đạo.
Mục tiêu đến năm 2045, đội ngũ trí thức Việt Nam phát triển lớn mạnh, có chất lượng cao, cơ cấu hợp lý, thuộc nhóm hàng đầu khu vực và tiệm cận trình độ các nước phát triển; giữ vai trò dẫn dắt chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế, là động lực then chốt để Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045, đồng thời đóng góp vào tiến bộ và văn minh nhân loại. Hình thành được hệ sinh thái trí thức quốc gia kết nối chặt chẽ giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, giữa cộng đồng trí thức trong và ngoài nước.
Để đạt được các mục tiêu trên, Chiến lược đưa ra 5 nhóm giải pháp chủ yếu: Thể chế, quản trị; tạo nguồn nhân lực và xây dựng hệ sinh thái phát triển đội ngũ trí thức; trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh trí thức; toàn cầu hóa trí thức, đưa trí thức Việt Nam vươn ra thế giới và trí thức thế giới tới Việt Nam; đo lường, đánh giá hiệu quả phát triển đội ngũ trí thức./.












