Đi tìm sự thống nhất trong trình bày truyện Kiều bản Quốc ngữ

Vừa qua, Hội Kiều học Việt Nam, Hội đồng gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền, Viện Nghiên cứu Danh nhân đã tổ chức tọa đàm 'Tìm kiếm phương án tối ưu cho việc trình bày văn bản Quốc ngữ Truyện Kiều' hướng đến phục vụ độc giả phổ thông. Tại đây, các nhà nghiên cứu đã bàn đến sự thống nhất về trình bày trong văn bản Quốc ngữ của Truyện Kiều.

Truyện Kiều bản gốc do đại thi hào Nguyễn Du viết không còn lưu giữ. Hiện nay, những văn bản Truyện Kiều còn lưu giữ là văn bản chữ Nôm được viết tay, được in sách. Và cũng từ văn bản Truyện Kiều chữ Nôm này đã có hàng trăm bản Truyện Kiều chữ Quốc ngữ được dịch ra. Kể từ khi bản “Truyện Kiều” - Quốc ngữ đầu tiên do nhà ngôn ngữ học Trương Vĩnh Ký phiên âm và xuất bản năm 1875 đến nay thì việc các bản Truyện Kiều - Quốc ngữ ngày nay thể hiện các quy tắc chính tả và cách dùng dấu câu cũng như việc phân đoạn “Truyện Kiều” đã có nhiều thay đổi, chưa được nhất quán và có nhiều vấn đề cần phải bàn thảo.

Năm 1911, Bản "Kim Vân Kiều truyện" của Trương Vĩnh Ký vẫn thể hiện cặp thơ lục bát là một câu, viết hoa câu 6.

Năm 1911, Bản "Kim Vân Kiều truyện" của Trương Vĩnh Ký vẫn thể hiện cặp thơ lục bát là một câu, viết hoa câu 6.

Trước hết, Truyện Kiều bản Quốc ngữ thường được viết theo thể thơ lục bát. Nhưng ở đây lại nảy sinh vấn đề là quan niệm cặp lục bát là một câu, một cặp, một chỉnh thể không tách rời và quan niệm câu thơ lục, câu thơ bát tách rời dẫn đến cách hiểu số câu trong Truyện Kiều là 1627 câu ( lục bát) hoặc 3254 câu lục và câu bát.

Cũng từ quan niệm khác nhau về câu thơ lục bát trong Truyện Kiều đã dẫn tới việc viết hoa đầu câu có sự khác nhau qua từng bản in. Năm 1875, Trương Vĩnh Ký tuy không trực tiếp nêu vấn đề cặp thơ lục bát là một câu, một cặp, một chỉnh thể không tách rời nhưng qua cách thể hiện văn bản cho thấy cách hiểu đó khi không viết đầu dòng câu 8 (và không đánh số câu). Năm 1930, “Dẫn giải truyện Kim Vân Kiều” của Huyền Mặc Đạo Nhân cũng cho thấy cách hiểu cặp lục bát là 1 câu qua việc đánh số. Tuy nhiên, có sự khác với Trương Vĩnh Ký là đầu dòng 8 đã viết hoa…

Năm 1930, "Dẫn giải truyện Kim Vân Kiều" - Huyền Mặc Đạo Nhân cũng cho thấy cách hiểu cặp lục bát là 1 câu qua việc đánh số. Tuy nhiên, có sự khác với Trương Vĩnh Ký là viết hoa cả câu 8 và câu 8.

Năm 1930, "Dẫn giải truyện Kim Vân Kiều" - Huyền Mặc Đạo Nhân cũng cho thấy cách hiểu cặp lục bát là 1 câu qua việc đánh số. Tuy nhiên, có sự khác với Trương Vĩnh Ký là viết hoa cả câu 8 và câu 8.

Bên cạnh đó là việc sử dụng dấu phẩy ở cuối câu lục và dấu chấm ở cuối câu bát có văn bản sử dụng, có văn bản lại không. Điều này đều xuất phát từ nhận thức của dịch giả khi cho rằng cặp lục bát là một cặp hoặc là 2 câu độc lập. Các bản dịch Truyện Kiều Quốc ngữ ngày nay phần lớn đã bỏ dấu chấm phẩy-; trong các dòng thơ vì quan điểm cho rằng, thơ Nôm không có dấu, người viết, viết theo cách nghĩ của mình, người đọc tự ngẫm, tự tiếp nhận. Việc thêm chấm phẩy của người sau là định hướng chủ quan của họ, theo họ thì để nhiều người dễ theo dõi, dễ hiểu hơn, như thế là họ lái người đọc theo ý mình.

Ngoài ra, tọa đàm cũng bàn đến vấn đề chia đoạn trong Truyện Kiều hoặc giữ nguyên khối không cần chia đoạn. Trong khi thực tế lại cho thấy, việc phân đoạn trong trình bày Truyện Kiều bản Quốc ngữ đã diễn ra liên tục từ năm 1911 như bản “Kim Vân Kiều truyện” do Trương Vĩnh Ký phiên. Mặc dù, Trương Vĩnh Ký năm 1875 đã không phân đoạn, nhưng sau này khi tái bản, nhà in đã phân đoạn. Hoặc bản “Kim Vân Kiều hội bản” được ghi dấu trên bìa năm 1894 (bản của Hoàng gia triều Nguyễn) đã đem Truyện Kiều nguyên khối tách ra 144 đoạn và đoạn nào cũng tạo thành “một câu chuyện nhỏ hoàn chỉnh” cho thấy sự đóng góp khác biệt của “Kim Vân Kiều hội bản”. Tác phẩm đã nhấn mạnh sự kỳ tài trong nghệ thuật sáng tác của Nguyễn Du, nhận ra sự nhuần nhuyễn trong thủ pháp nghệ thuật của đại thi hào dân tộc khi khiến người đọc tìm thấy trong câu chuyện lớn là chuỗi chuyện nhỏ. Đây là những nét đặc sắc mà nhiều nhà nghiên cứu hiện nay chưa để ý.

Tọa đàm do Hội Kiều học Việt Nam, Viện nghiên cứu Danh nhân, Hội đồng gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền tổ chức.

Tọa đàm do Hội Kiều học Việt Nam, Viện nghiên cứu Danh nhân, Hội đồng gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền tổ chức.

GS.TS Trần Đình Sử cho biết, ông không phủ nhận cả hai giả thuyết đang được công bố. Tuy nhiên, ông nhìn nhận tác phẩm “Kim Vân Kiều hội bản” như một trường hợp nghiên cứu đặc biệt. Bởi lẽ, cuốn sách không chỉ vẽ đôi ba tranh minh họa như thường thấy mà vẽ liên hoàn tới 146 bức, theo sát nội dung 144 đoạn trong Truyện Kiều.

Bên cạnh các ý kiến đóng góp về hình thức trình bày của Truyện Kiều, PGS.TS Băng Thanh cho rằng, cần có sự chuyển ngữ trong bản dịch chữ ngữ Quốc ngữ Truyện Kiều vì nhiều từ cổ được sử dụng, nhưng đến ngày nay, độc giả phổ thông sẽ rất khó tiếp cận nếu không được giải thích hoặc dùng từ thay thế phù hợp với thời đại.

Thanh Xuân

Nguồn ANTĐ: https://anninhthudo.vn/di-tim-su-thong-nhat-trong-trinh-bay-truyen-kieu-ban-quoc-ngu-post619017.antd