Địa phương chậm xét thăng hạng chức danh khiến giáo viên thiệt thòi

Cho đến thời điểm này vẫn có địa phương chưa triển khai xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp theo Thông tư 08/2023/TT-BGDĐT khiến giáo viên thiệt thòi quyền lợi.

Ngày 14/4/2023, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư 08/2023/TT-BGDĐT sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư số 01, 02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT ngày 02/02/2021 quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trongcác cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập.

Tuy vậy, cho đến thời điểm này, tại địa phương người viết công tác - Thành phố Hồ Chí Minh - vẫn chưa triển khai xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp cho giáo viên bậc trung học phổ thông.

Một số giáo viên bậc trung học phổ thông ở tỉnh, thành khác cũng chia sẻ với người viết rằng, ở địa phương nơi thầy cô giáo đang công tác cũng có tình trạng như vậy.

Người viết là giáo viên bậc trung học phổ thông nhận thấy, việc các cơ quan hữu quan chậm xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp khiến thầy cô giáo bị thiệt thòi rất nhiều về quyền lợi.

 Ảnh minh họa: giaoduc.net.vn

Ảnh minh họa: giaoduc.net.vn

Thứ nhất, việc Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Nội vụ các tỉnh, thành chậm xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp làm cho giáo viên bị thiệt thòi về lương và các khoản phụ cấp theo lương.

Chẳng hạn, theo Điều 8 Thông tư 04/2021/TT-BGDĐT quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các trường trung học phổ thông công lập, giáo viên trung học phổ thông hạng III, mã số V.07.05.15, được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A1, từ hệ số lương 2,34 đến 4,98;

Còn giáo viên trung học phổ thông hạng II, mã số V.07.05.14, được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A2, nhóm A2.2, từ hệ số lương 4,0 đến 6,38.

Ví dụ cụ thể, thầy giáo Nguyễn Văn A là giáo viên trung học phổ thông hạng III có hệ số lương 3,33; trước khi được tuyển dụng viên chức đã có bằng thạc sĩ. Nếu thầy giáo này được xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học phổ thông hạng II thì sẽ có hệ số lương 4,0.

Hay nói cách khác, giáo viên có hệ số lương 3,33 lên hệ số lương 4,0 thì tương đương với việc được tăng 2 bậc lương. Hệ số lương tăng thì các khoản khác cũng sẽ tăng theo như phụ cấp đứng lớp, thâm niên, quản lí,...

Cùng với đó, việc chậm xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp hạng II kéo theo giáo viên sẽ bị chậm xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp hạng I.

Thứ hai, việc chậm xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp làm cho giáo viên chờ đợi rất mệt mỏi, cụ thể là trường hợp của người viết bài này.

Người viết đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học phổ thông hạng II (mã số V.07.05.14) theo quy định tại Thông tư 04/2021/TT-BGDĐT nhưng từ năm 2022 đến nay vẫn chưa được xét - mặc dù tôi đã nộp hồ sơ 2 lần.

Người viết cũng đã có phản ánh qua bài viết "Thành phố Hồ Chí Minh: Giáo viên trung học phổ thông "tâm tư" vì mãi chưa được xét thăng hạng, Sở Nội vụ nói gì?" đăng tải trên Tạp chí Điện tử Giáo dục Việt Nam ngày 12/04/2024. [1]

Bản thân người viết đạt nhiều thành tích, đã được các cấp có thẩm quyền công nhận, nhưng vì chưa được thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên từ hạng III lên hạng II nên tôi luôn có cảm giác thua thiệt, mặc cảm với những đồng nghiệp đã được thăng hạng.

Thứ ba, việc chậm xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp khiến các nhà trường phổ thông thiếu nhân sự làm nhiệm vụ của giáo viên ở hạng cao hơn.

Chẳng hạn, ở trường trung học phổ thông, nếu không có giáo viên hạng II thì sẽ không có ai làm những nhiệm vụ theo quy định tại Thông tư 04/2021/TT-BGDĐT:

- Làm báo cáo viên hoặc dạy minh họa ở các lớp bồi dưỡng giáo viên từ cấp trường trở lên hoặc dạy thử nghiệm các mô hình, phương pháp, công nghệ mới; chủ trì các nội dung bồi dưỡng và sinh hoạt chuyên đề ở tổ chuyên môn hoặc tham gia xây dựng học liệu điện tử;

- Tham gia hướng dẫn hoặc đánh giá các sản phẩm nghiên cứu khoa học và công nghệ từ cấp trường trở lên;

- Tham gia đánh giá ngoài hoặc công tác kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên từ cấp trường trở lên;

- Tham gia ban giám khảo hội thi giáo viên dạy giỏi hoặc giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi cấp trường trở lên;

- Tham gia ra đề hoặc chấm thi học sinh giỏi trung học phổ thông từ cấp trường trở lên;

- Tham gia hướng dẫn hoặc đánh giá các hội thi hoặc các sản phẩm nghiên cứu khoa học kỹ thuật của học sinh trung học phổ thông từ cấp trường trở lên;

- Tham gia các hoạt động xã hội, phục vụ cộng đồng; thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong việc tổ chức các hoạt động dạy học, giáo dục học sinh.

Thứ tư, việc chậm xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp, theo người viết, sẽ có nguy cơ không đủ giáo viên hạng I.

Chẳng hạn, tiêu chuẩn, điều kiện xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học phổ thông hạng I (mã số V.07.05.13) rất khó, đòi hỏi giáo viên hạng II phải mất nhiều thời gian cố gắng mới có thể thỏa hết các điều kiện.

Bởi vì, văn bản số 64/BNV-CCVC về hướng dẫn xác định cơ cấu ngạch công chức và cơ cấu hạng chức danh nghề nghiệp viên chức cho biết:

Đối với đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (đơn vị tự chủ nhóm 3) và đơn vị sự nghiệp công lập do ngân sách Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (đơn vị tự chủ nhóm 4): Chức danh nghề nghiệp hạng I và tương đương: tối đa không quá 10%. [2]

Cùng với đó, khoản 2 Điều 10 Thông tư 13/2024/TT-BGDĐT quy định:

2. Trong thời gian giữ chức danh nghề nghiệp giáo viên trung học phổ thông hạng II và tương đương, có 05 năm công tác liền kề trước năm dự xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp được xếp loại chất lượng ở mức hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên, trong đó có ít nhất 02 năm được xếp loại chất lượng ở mức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp tốt; không trong thời hạn xử lý kỷ luật; không trong thời gian thực hiện các quy định liên quan đến kỷ luật theo quy định của Đảng và của pháp luật. [3]

Có thể nhận thấy, việc khống chế chức danh nghề nghiệp hạng I và tương đương tối đa không quá 10% và quy định giáo viên trung học phổ thông hạng II có ít nhất 02 năm được xếp loại chất lượng ở mức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thì rất ít thầy cô giáo có thể đạt được, mức độ cạnh tranh rất cao.

Liên quan đến việc thăng hạng chức danh nghề nghiệp, ngày 30/10/2024, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư số 13/2024/TT-BGDĐT quy định tiêu chuẩn, điều kiện xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non, phổ thông công lập và giáo viên dự bị đại học. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/12/2024.

Rất mong các địa phương quan tâm triển khai xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên theo đúng quy định để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho thầy cô giáo.

Tài liệu tham khảo:

[1] https://giaoduc.net.vn/tphcm-giao-vien-thpt-tam-tu-vi-mai-chua-duoc-xet-thang-hang-so-noi-vu-noi-gi-post241992.gd

[2] https://giaoduc.net.vn/gioi-han-ti-le-hang-chuc-danh-nghe-nghiep-gv-muon-thang-hang-se-khong-de-post240455.gd

[3] https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Lao-dong-Tien-luong/Thong-tu-13-2024-TT-BGDDT-tieu-chuan-thang-hang-nghe-nghiep-giao-vien-mam-non-cong-lap-629730.aspx

(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.

Ánh Dương

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/dia-phuong-cham-xet-thang-hang-chuc-danh-khien-giao-vien-thiet-thoi-post249478.gd