Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Tuyên Quang thảo luận về lĩnh vực giáo dục tại Kỳ họp thứ 10 của Quốc hội

Chiều 20-11, Quốc hội tiếp tục thảo luận tại hội trường về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục; Dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi); Dự án Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi); Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về những cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.

Các đại biểu Quốc hội Lý Thị Lan, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh Tuyên Quang và đại biểu Ma Thị Thúy, Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh tham gia các ý kiến thảo luận tại hội trường.

* Phát biểu tại hội trường, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội (ĐBQH) chuyên trách tỉnh Lý Thị Lan cho rằng đối với vùng miền núi, đồng bào DTTS nếu không giải được bài toán mầm non, mọi mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục đều không thể thành hiện thực. Trẻ mầm non không thể đi bộ đường dài; không ở bán trú dài ngày vì còn quá nhỏ; địa hình chia cắt, việc đến lớp khó khăn, không thể vận hành trường mầm non như khu vực thuận lợi.

Trưởng đoàn ĐBQH chuyên trách tỉnh Lý Thị Lan phát biểu thảo luận.

Trưởng đoàn ĐBQH chuyên trách tỉnh Lý Thị Lan phát biểu thảo luận.

Đằng sau mỗi điểm trường là những cô giáo đi từng nhà vận động cha mẹ học sinh, vượt qua dốc đá cheo leo. Một đứa trẻ vùng cao đến lớp là nỗ lực của cả hệ thống chính trị, nhưng trước hết là sự bền bỉ, kiên trì của người thầy, người cô. Vì vậy, điểm trường mầm non không phải là sự lựa chọn mà là một đặc thù khách quan ở các tỉnh miền núi, biên giới, vùng đồng bào DTTS. Dù cơ sở vật chất đã được đầu tư, nhưng nếu không có giáo viên ngay tại thôn bản, chúng ta không thể mở lớp cho nhóm trẻ 2-3 tuổi và càng không thể đạt mục tiêu phổ cập mầm non 3-5 tuổi ở vùng này.

Đại biểu đề nghị bổ sung vào Điều 29 Luật Giáo dục (sửa đổi): “Địa phương được tổ chức mô hình trường chính - điểm trường - nhóm trẻ phù hợp điều kiện địa hình; Nhà nước bảo đảm biên chế và điều kiện tối thiểu cho điểm trường mầm non tại vùng miền núi, biên giới vùng đồng bào DTTS”. Đây là cơ sở pháp lý bảo đảm các tỉnh miền núi, biên giới, vùng đồng bào DTTS duy trì điểm trường một cách hợp lý, có phân bổ về biên chế, không còn tình trạng “muốn mở lớp nhưng không có cô, muốn duy trì điểm trường mầm non nhưng không có vị trí việc làm”. Đảm bảo đúng quan điểm xuyên suốt “ở đâu có học sinh thì phải có thầy giáo”.

Đại biểu cũng cho rằng, không phải cơ sở vật chất hay thiết bị, chính nhà giáo là yếu tố quyết định chất lượng giáo dục. Nhưng miền núi, biên giới, vùng đồng bào DTTS luôn đối mặt với việc thiếu giáo viên trầm trọng. Giáo viên bản địa là “linh hồn” của lớp học mầm non vì họ nói được tiếng dân tộc, hiểu phong tục, được phụ huynh tin tưởng và gắn bó lâu dài với trường, với bản, với học trò. Nếu không giải quyết được bài toán đào tạo và tuyển giáo viên bản địa thì nút thắt giáo dục mầm non sẽ không bao giờ được giải quyết tận gốc.

Về dự bị sư phạm, Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học đã nâng chuẩn trình độ giáo viên lên là đúng và cần thiết, nhưng với vùng miền núi, biên giới điều này tạo ra khoảng trống lớn, học sinh DTTS còn hạn chế về tiếng Việt, kỹ năng học thuật dù đã được đào tạo rất tốt trong hệ thống trường bán trú, liên cấp nội trú 12 năm. Nhiều học sinh có phẩm chất sư phạm nhưng không đạt chuẩn đầu vào các trường đại học sư phạm, cơ hội trở thành giáo viên ở chính quê hương mình sẽ khép lại.

Đồng chí Trưởng đoàn ĐBQH chuyên trách tỉnh kiến nghị bổ sung vào Điều 14 Luật Giáo dục đại học (sửa đổi): “Cơ sở giáo dục đại học được tổ chức chương trình dự bị sư phạm một năm dành cho học sinh DTTS và học sinh vùng miền núi, biên giới trước khi vào học chính khóa”.

Về hoàn thiện cơ chế đặt hàng đào tạo, chính sách đặt hàng đào tạo sư phạm, đại biểu đề nghị: Mở rộng đối tượng tuyển sư phạm cho học sinh DTTS và vùng miền núi, biên giới; chỉ tiêu đào tạo giáo viên phải căn cứ nhu cầu từng tỉnh, Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm phân bổ chỉ tiêu theo nhu cầu địa phương; kinh phí đào tạo đặt hàng giáo viên miền núi, biên giới, DTTS phải do ngân sách Trung ương bảo đảm và lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia. Bổ sung quy định về trách nhiệm của nhà nước trong bảo đảm chỉ tiêu biên chế mầm non, tiểu học tại vùng đồng bào DTTS trong Luật Giáo dục sửa đổi.

Bổ sung nguyên tắc nguồn lực tại dự thảo Nghị quyết đặc thù: Ngân sách Trung ương đảm bảo phần kinh phí tăng thêm do thực hiện phụ cấp ưu đãi nghề đối với nhà giáo vùng đặc biệt khó khăn đối với các địa phương không tự cân đối được ngân sách. Nếu Trung ương không hỗ trợ nguồn lực thì chính sách đào tạo, đặt hàng sẽ không thể vận hành đúng tinh thần “Ưu tiên người thầy miền núi, dân tộc thiểu số”.

Đồng chí Trưởng đoàn ĐBQH chuyên trách tỉnh nhấn mạnh: Chính sách về giáo dục là lời cam kết mạnh mẽ “Không một trẻ em nào bị bỏ lại phía sau trên hành trình đến trường và học tập suốt đời”.

*Tham gia thảo luận vào Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về những cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, đại biểu Ma Thị Thúy đồng tình với sự cần thiết ban hành Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để thực hiện đột phá phát triển giáo dục, thể hiện sự quyết tâm của Đảng, Nhà nước cùng với 03 dự án Luật về Giáo dục và chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035. Đại biểu cũng nhất trí với mục tiêu tổng quát và 05 chính sách đột phá trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.

Đại biểu Ma Thị Thúy phát biểu thảo luận.

Đại biểu Ma Thị Thúy phát biểu thảo luận.

Về hỗ trợ người học và đào tạo nhân lực trình độ cao, đại biểu cho rằng “Người học” ở đây có thể hiểu là người đi học bao gồm từ mầm non, tiểu học, THCS, THPT, giáo dục đại học, sau đại học… nếu có nhu cầu vốn vay ưu đãi thì được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi.

Quy định như dự thảo chưa xác định rõ nhóm đối tượng tiếp cận nguồn vay ưu đãi, trong khi hiện nay chính sách của Nhà nước đang hướng tới đối tượng sinh viên thuộc nhóm đối tượng nghèo, cận nghèo, hộ gia đình khó khăn, bị rủi ro bất khả kháng... Vì vậy, Chính phủ mở rộng chính sách, nhưng cần quy định ưu tiên về đối tượng, bổ sung cơ chế rõ ràng, cụ thể và tạo thuận lợi trong tổ chức thực hiện.

Đồng tình với quan điểm cần có chính sách ưu đãi đầu tư cho Giáo dục và đào tạo. Trong đó, dự thảo quy định phân cấp cho HĐND và UBND cấp tỉnh trong việc bổ sung dự án, đầu tư trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo và trách nhiệm bố trí quỹ đất, ưu tiên bố trí trụ sở dôi dư, bố trí quỹ đất sau sắp xếp cơ sở giáo dục và đào tạo công lập để thực hiện chính sách xã hội hóa. Đại biểu cho rằng nội dung này chưa rõ, chưa ưu đãi mạnh mẽ để đột phá trong lĩnh vực giáo dục.

Đề nghị cần có quy định tháo gỡ những rào cản trong thực tiễn, đột phá rõ nét hơn, tạo cơ chế thông thoáng. Cụ thể là quy định rõ trách nhiệm quy hoạch bố trí quỹ đất sạch cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo; cho thuê hoặc giao đất không thu tiền sử dụng đất, hoặc miễn tiền sử dụng đất, hoặc cơ chế không đấu giá, đấu thầu các dự án liên quan đến lĩnh vực giáo dục để khắc phục những bất cập, khó khăn hiện nay.

Mặc khác, hiện nay Quốc hội cũng đang tập trung nghiên cứu xây dựng dự thảo Nghị quyết quy định một số cơ chế, chính sách tháo gõ khó khăn vướng mắc trong tổ chức thi hành luật đất đai cho nên những vấn đề liên quan đến đất đai thuộc lĩnh vực giáo dục, y tế cần nên xem xét, đánh giá kỹ lưỡng và quy định tại Dự thảo Nghị quyết này sẽ đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ hơn trong xây dựng và thực thi, chính sách pháp luật.

Đối với quy định “Nhà nước bảo đảm chi đủ, tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo; ưu tiên bố trí ngân sách từ nguồn tăng thu cho phát triển giáo dục và đào tạo, đặc biệt ở vùng có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biêt khó khăn”. Đại biểu cho rằng nội dung này đã được cụ thể hóa tại Điều 96 Luật Giáo dục.

Nếu muốn thể hiện sự mạnh mẽ hơn trong cam kết bố trí đủ ngân sách cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo nên xem xét sửa đổi Luật Giáo dục. Đồng thời quy định rõ và bổ sung ưu tiên bố trí ngân sách từ nguồn tăng thu cho phát triển giáo dục và đào tạo, đặc biệt ở vùng có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn; biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi; rà soát, bổ sung chính sách ưu đãi thực sự thu hút đầu tư trong lĩnh vực giáo dục mà thực tiễn đang cần hiện nay.

PV

Nguồn Tuyên Quang: http://baotuyenquang.com.vn/thoi-su-chinh-tri/202511/truong-doan-dbqh-tinh-ly-thi-lan-giai-bai-toan-giao-duc-mam-non-de-go-nut-that-nang-cao-chat-luong-giao-duc-3bf4e80/